CN XXI THƯỜNG NIÊN C (Lc 13,22-30)
1. Bài Đọc
“Lúc đó (1) trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: ‘Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?’. Người bảo họ: ‘Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được’.
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: ‘Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’. Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi’. Nhưng ông sẽ đáp lại với anh em: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’.
“Ở đó anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham (2), Isaác (3) và Giacóp (4) cùng tất cả các ngôn sứ được ở ttrong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.
2. Chú Thích
(1) Lúc đó: Thêm vào, sau khi Chúa Giêsu nói về dụ ngôn nắm men trong bột.
(2) Abraham: Theo Thánh Kinh Do Thái, nguyên tên là Abram, là con ông Têra, sau được Thiên Chúa đổi tên là Abraham, trước có con với người nữ tỳ Ai Cập là Aga, đặt tên là Ismaen. Sau đến ngày 100 tuổi và bà chính thất Sara đã 90 tuổi, được Thiên Chúa ban ơn cho sinh con là Isaac. Người Do Thái kể ông như một tổ phụ đặc biệt, có lòng tin Thiên Chúa đến nỗi sẵn sàng hỏa thiêu con để tế lễ theo lời Thiên Chúa truyền; nhưng Thiên Chúa đã cho thiên thần đến ngăn chặn và bắt một con chiên thay thế.
(3) Isaác: Con Abraham, Thánh Kinh Do Thái có thuật chuyện, trong mộng, Thiên Chúa truyền cho ông Abraham phải đem Isaác lên núi giết đi để tế lễ cho Thiên Chúa. Ông Abraham vâng lời thi hành, Thiên Chúa thấy lòng ông nên đã cho thiên thần can thiệp và đem đến một chiên con thay thế.
(4) Giacóp: Israel: Con Isaác và bà Rêbêca, cháu nội Abraham, em Esau, đã giành quyền trưởng nam của anh. Sinh được 12 con trai là 12 trưởng tộc Do Thái. Thánh Kinh của người Do Thái kể chuyện, khi tổ phụ của họ là Giacóp, ban đêm, chiến đấu với Thiên Chúa, được Thiên Chúa đổi tên là Israel, có nghĩa Thiên Chúa tỏ sức mạnh (St 32,29). Từ đó dân tộc Do Thái nhận tên ấy.
3. Suy Niệm
(1) Xưa nay, có nhiều người thắc mắc không biết số các thánh ở trên thiên đàng nhiều hay ít. Tin Thiên Chúa chí thiện và chí nhân, có người nói trên thiên đàng nhiều hơn dưới hỏa ngục. Tin Thiên Chúa thưởng phạt chí công và muốn giúp người ta lo sợ để ăn ở tử tế, người khác lại nói dưới hỏa ngục đông hơn trên thiên đàng. Như có sách dám kể chuyện, có vị thánh trông thấy hằng ngày sa số linh hồn sa xuống hỏa ngục. Thật không ai dám quả quyết thế nào, vì phải tin chắc Thiên Chúa thương yêu vô cùng, không muốn cho có một người nào phải sa xuống hỏa ngục. Nhưng Thiên Chúa chí minh, nên định luật nhân quả hữu lý và phân minh, có điều kiện thế nào thì lên thiên đàng, và nguyên nhân thế nào thì xuống hỏa ngục; chứ không phải như người ta chỉ có cảm tình hay là tây vị, hoặc độc đoán độc tài. Bao giờ Thiên Chúa cũng tôn trọng định luật của Thiên Chúa, vì là những định luật hợp chân lý, ích lợi cho thụ tạo. Thiên Chúa lại ban cho người ta giống Thiên Chúa một phần nào, là có tinh thần, lý trí và tự do, thì mỗi người có thể làm chủ và có trách nhiệm đến vận mệnh họa phúc của mình. Không nên suy đoán theo cảm tình. Phải theo gương Thiên Chúa, khuyên bảo người ta cố gắng vào cửa hẹp. Không có nghĩa Thiên Chúa bắt những điều khó khăn, nhưng chỉ vì người ta bị hậu quả của tội nguyên tổ, chịu lấy ảnh hưởng di truyền, giáo dục và tổ chức sai lầm, quen theo ích kỷ, kiêu căng ác độc, không còn biết thương người, khiêm tốn để cho sáng suốt, lại hung ác, làm hại anh em mình, thì chính mình có hình thù to lớn vì tính xấu và tội lỗi, cửa thiên đàng trở nên hẹp nhỏ cho mình, chứ vẫn rộng rãi với những người trung thành theo luật mến Thiên Chúa yêu thương người.
(2) Tại sao có nhiều người tìm vào mà không được? Có phải vì Thiên Chúa không thương không giúp họ chăng? Nghĩ như thế là có tội, có lỗi với Thiên Chúa chí thiện và chí nhân. Thiên Chúa vẫn ban ơn giúp đỡ cho mọi người được vào thiên đàng. Nhưng ai không được vào, chỉ vì họ không có điều kiện để nhận ơn đó. Như Chúa Giêsu phán, có người tưởng đã ăn uống trước mặt chủ nhà, đã nghe chủ nhà giảng dạy trong các công đường của mình, nghĩa là có tiếng đã theo đạo Thiên Chúa, đi nhà thờ, nghe giảng dạy, đã biết một vài câu giáo lý Phúc Âm, đã đọc một số kinh nguyện hay giữ một mớ hình thức, thì đủ để Thiên Chúa mở cửa thiên đàng cho mình. Không đâu! Thiên Chúa không nhận biết những người chưa giữ luật của Thiên Chúa là luật bác ái và công bình. Thiên Chúa gọi họ, như ông chủ nhà kia đã gọi những người gõ cửa nhà ông, mà không theo luật và không đi đường lối của ông, là những người làm điều gian ác, là đã ích kỷ, ham danh lợi cho mình và làm hại người khác. Dĩ nhiên, những người đó không được vào nhà ông, cũng như không được vào cửa thiên đàng, là nơi thiên thần và các thánh chỉ biết chúc tụng Thiên Chúa và thương yêu nhau. Không quen như thế, thì không được vào đó. Thiết tưởng không cần phải trả lời, vì đó là luật đương nhiên, quen chỗ nào thì vào chỗ ấy, quen thế nào thì được thế ấy. Nhưng chủ nhà đã nhân từ trả lời với mấy người kia. Cũng như Thiên Chúa chí nhân đã giải thích rõ ràng bằng những câu chuyện ví dụ cụ thể trong đời sống thông thường.
(3) Hay là có người xưng mình theo đạo Thiên Chúa đã mấy đời, như xưa kia, người Do Thái đã tự nhận mình là con cháu các tổ phụ dòng dõi thế nào. Chúa Giêsu phán rõ, vào thiên đàng là nhờ đời sống đạo đức của mỗi người, chứ không phải vì con ai, cháu ai, dòng dõi nào, không phải Do Thái hay Hy Lạp, thuộc về dân tộc này hay dân tộc khác. Cho nên có những người từ xứ này hay xứ kia, nhưng biết giữ luật Thiên Chúa là luật bác ái và công bình, thì được vào dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Không phải ai vào trước thì được trước, ai vào sau thì ở sau. Nhưng tùy lòng nhiệt thành và trung kiên của mỗi người. Nếu biết đạo trước, nhưng không lo giữ cho đúng luật đạo, chỉ có tên tuổi hay hình thức bề ngoài, chỉ lo làm việc đạo vì thói quen hay vì muốn được người ta khen, sợ người ta chê, thì đối với Thiên Chúa vẫn như không. Nếu có làm điều hại kẻ khác, về vật chất hay tinh thần, chưa sửa đổi thì không được vào thiên đàng. Còn có người vào đạo sau, nghĩa là một ngày kia, mới nghe biết, đem hết lòng nhiệt thành giữ luật Thiên Chúa, lại còn cố gắng làm sao để bù đắp những ngày quá khứ, mình đã không biết và không mến Thiên Chúa yêu thương người, thì càng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là những người sau lại thành ra trước. Vậy đối với Thiên Chúa hay là nói về hạnh phúc thiên đàng, không có vấn đề Do Thái hay Hy Lạp, đạo cũ hay đạo mới, chỉ có một điều kiện, là giữ luật Thiên Chúa, là luật bác ái và công bình./-