Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 23, 23-26)
23 "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.24 Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.25 "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ.26 Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
SUY NIỆM 1
Thành ngữ hằng ngày chúng ta thường nói: “Ôi đàn bà, tẹp nhẹp”. Nói thế không phải là chúng ta hạ thấp phẩm giá người phụ nữ, một nửa của thế giới, nhưng câu nói ấy hàm chứa tâm lý chung phản ánh đặc trưng của phụ nữ: tỉ mĩ, chi ly, quan tâm từng chi tiết nhỏ. Vì thế mà xưa cho đến nay cũng vậy, người phụ nữ lo việc nhà, nội trợ, những việc chi li trong nhà mà người đàn ông không thể làm tốt cho bằng họ được.
Mặt khác, khi nói thành ngữ này, không chỉ là nói về tâm lý chung trở thành đặc tính của phụ nữ, mang tính chất tích cực, tỉ mĩ, chi ly, tính toán là tốt, rất tốt. Nhưng tỉ mỹ, chi li, tính toán thái quá đến mức độ ích kỷ, coi trọng việc hơn người, coi luật trọng hơn phẩm giá người khác thì nguy to.
Điều mà Chúa Giêsu phê phán giới kinh sư luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay đó là thái độ giả dối, lấp liếm sự thật. Lấy cái nhỏ để lấp liếm cái to, lấy cái ít giá trị để che đậy cái nhiều giá trị hơn bị mình chà đạp. Điều quan trọng nhất trong việc sống và giữ luật đó là Công Lý, lòng nhân và Thành Tín. Những việc đời nhỏ nhặt như việc đóng thuế đó là việc phải làm, là quy định của xã hội, là nghĩa vụ. Cả đến việc đời còn cần tới công lý huống chi là luật Chúa. Thế mà giới Pharisiêu thì khác, họ lấy những việc đời ấy để lấp liếm đi cái xấu xa đê tiện bên trong, đó mới là nguyên nhân cấu thành sự xấu xa và tội lỗi của chính họ. Với chính dân chúng, họ tỏ ra đạo đức, tuân giữ luật lệ, nhưng chính với Chúa, vì giả dối, lươn lẹo, xảo quyệt, họ che mắt thiên hạ bằng những việc cỏn con, còn việc lớn là lòng Thành Tín với Chúa, công bình và nhân từ đối với anh em thì không, hoàn toàn không.
Một xã hội đầy những quan tham ô, đó là nỗi nhức nhối của xã hội. Họ coi đồng tiền và sự giàu sang trên mồ hôi nước mắt của bao người quan trọng hơn phát triển đất nước, văn minh văn hoá con người. Từ sự đảo lộn giá trị và những lấp liếm của cả một hệ thống, chúng ta thấy tính thời sự của điều mà Chúa khẳng định hôm nay: Công Lý, lòng nhân và sự Thành tín?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho đất nước chúng con được thái bình. Nhất là giá trị về Công Lý, Lòng Nhân Và Thành Tín được thực thi. Amen.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
SUY NIỆM 2
1. “Khốn cho các ngươi”
Trong chương 23 của sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su nói tới bảy lần “Khốn cho các ngươi…” (c. 13.15.16.23.27 và 29): bài Tin Mừng hôm qua ba lần, bài Tin Mừng hôm nay hai lần và bài Tin Mừng ngày mai hai lần còn lại:
Khi nói “khốn cho các người”, Đức Giê-su có vẻ rất nặng lời, nếu chúng ta hiểu đó lời chúc dữ hay nguyền rủa, theo đó những người này, với cách hành xử như thế, sẽ chuốc lấy án phạt nặng nề hay sẽ gặp nhiều tai họa. Tuy nhiên, đó đúng hơn là những lời ta thán, có giá trị mặc khải căn bệnh người ta đang có nhưng không nhận ra; và bệnh tình tự nó đó có những hậu quả tiêu cực cho mình và cho người khác rồi. Tương tự như những “bất hạnh” mà ngôn sứ Isaia đã công bố (x. Is 5, 8-24 và 10, 1-11, trong những câu này, vị ngôn sứ nói “Than ơi!” đến 8 lần). Đức Giê-su không bao giờ nguyền rủa hay chúc dữ con người; bởi lẽ sứ mạng của Người chẳng phải là cứu thoát chúng ta khỏi những lời chúc dữ đó sao? Như Người đã nói: “Thầy đến không phải kêu gọi những người công chính, nhưng là những người tội lỗi” (9, 13)?
Con người ban đầu có thể từ chối Đức Giê-su, nhưng sau đó, lại hối hận, cho dù là thật trễ, và tuyên xưng: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” (c. 39); tương tự như người con thứ nhất ban đầu từ chối lời mời gọi đi làm vườn nho, trong dụ ngôn người cha có hai người con, “nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi” (Mt 21, 29). Trong lời nói của các ngôn sứ, nếu lời hứa cứu độ đã được công bố tiếp theo sau những lời đe dọa về những tai họa sẽ đến (Os 2, 8.11.16 hoặc Is 6, 13), thì cũng vậy, trong sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, câu cuối cùng này của chương 23: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” trồi hiện lên như là niềm hi vọng rạng ngời bao bọc toàn bộ bảy lời than trách.
2. Bệnh “đạo đức giả”
Trong bẩy câu nói “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu”, Đức Giê-su đều nói rằng, họ những người “đạo đức giả”, trừ lần thứ ba (c. 6):
Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả!
Có thể nói, đó là bệnh “đạo đức giả” mà Đức Giê-su muốn cho các kinh sư và người Pha-ri-sêu, và qua họ, cho con người thuộc mọi thời, trong đó có mỗi người chúng ta hôm nay, nhận ra. Và khi nhận ra, người ta đã bắt đầu bước vào hành trình chữa lành rồi.
“Đạo đức giả” mà Đức Giê-su nói tới không theo nghĩa chúng ta thường hiểu, nhưng là một thứ bệnh có nhiều biểu hiện phức tạp, khó nhận ra:
Biểu hiện thứ nhất. Đức Giê-su nói: “Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào” (c. 13). Người “đạo đức giả” là những người làm cho người khác không nhận ra hành động của Thiên Chúa trong lịch sử loài người và trong lịch sử đời mình, đó là từ chối tin nhận Đức Giê-su là đường dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa.
Biểu hiện thứ hai. Người “đạo đức giả” là những nhọc công để làm cho một người theo đạo, nhưng sau đó, lại biến người này thành “con cái của hỏa ngục” (c. 15). Đó là hoán cải con người, không phải về với Thiện Chúa đích thật, nhưng là qui về nhưng quan niệm, hệ thống lí thuyết và thực hành của loài người hay của riêng mình.
Biểu hiện thứ ba. Người “đạo đức giả” là những người mù quáng (c. 16-22), khi dẫn người ta vào con đường phân biệt chi li về vấn đề lời thề, khi mà bất cứ lời nào được thốt ra cũng phải luôn luôn là chân thật trước mặt Thiên Chúa (x. 5, 33-37).
Biểu hiện thứ tư. Những người “đạo đức giả” là những người làm tròn bổn phận nộp mọi thứ thuế, nhưng lại bỏ qua công lý và lòng nhân, nghĩa là tương quan với tha nhân, bỏ qua lòng thành tín, nghĩa là tương quan với Thiên Chúa. Như thế, họ chỉ làm tròn những bổn phận đem lại cho mình vinh quang, danh dự, tiếng tốt với nhưng người có quyền có thế. Trong khi tâm điểm và ý nghĩa của Lề Luật là mến Chúa và yêu người, thì họ không quan tâm. Sống lệ thuộc vào lời khen tiếng chê, như chúng ta đều biết, quả là một bất hạnh.
Biểu hiện thứ năm. Những người “đạo đức giả” là những người « rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ ». Đức Giê-su không chống lại những nghi thức thanh tẩy, nhưng chống lại thái độ duy nghi thức, chỉ dừng lại ở việc thanh tẩy bên ngoài, ở vẻ đẹp bên ngoài. Như thế, đối với Đức Giê-su, các nghi thức không tự động làm cho người trở nên thanh sạch ; nhưng ngược lại, những nghi thức này trở nên vô nghĩa và trống rỗng nếu không diễn tả sự thanh sạch và vẻ đẹp của tâm hồn, hay nói như Đức Giê-su, diễn tả một lối sống với Thiên Chúa và tha nhân.
3. Chữa lành
Qua những lời, có thể nói, thật “đắng” như thuốc chữa bệnh, Đức Giê-su muốn mặc khải cho những người Pha-ri-sêu và những nhà thông luật, rằng lối suy nghĩ và hành động của họ, là một thứ bệnh; và vì là bệnh, giống như bệnh thể lý, phải có người khám bệnh và cho biết đó là bệnh gì; ngoài ra, như chúng ta đều biết và đôi khi có kinh nghiệm, bệnh tật, tự nó là một bất hạnh. Hiểu theo nghĩa này, chúng ta có thể diễn đạt lại lời của Đức Giê-su như sau: “bất hạnh cho các người”. Nếu là như thế, ở mức độ nào đó, chúng ta cũng phải được đánh động bởi những lời này của Đức Giê-su, và nhất là để cho mình bị đụng chạm !
Nhưng Đức Giêsu, với tư cách là thầy thuốc, Ngài không chỉ chuẩn bệnh, nhưng con chữa bệnh nữa. Ngài chữa lành căn bệnh của chúng ta không chỉ bằng lời mặc khải, nhưng còn bằng chính cách sống của Ngài với con người và Thiên Chúa Cha. Như con rắn đồng xưa (x. Ds 21, 4-9), ai nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, thì sẽ được chữa lành, chữa lành khỏi (x. Ga 3, 17-19):
- Căn bệnh ghen tị: điều tốt, là Nước Trời và là chính ngôi vị Đức Giê-su, mình không có, thì người khác không được quyền có.
- Căn bệnh coi mình, những kinh nghiệm, những quan niệm, những hệ tư tưởng, những lí thuyết, những nguyên tắc của mình là tuyệt đối.
- Căn bệnh lệ luật, nghĩa là coi sự công chính của con người đến từ việc giữ luật thật chi li, thay vì đến từ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô; lệ luật còn là coi luật trọng hơn sự sống, trong khi luật được ban là để phục vụ cho sự sống.
- Căn bệnh danh lợi, nghĩa là chỉ thi những luật mang lại cho mình vinh quang, danh dự, tiếng tốt với nhưng người có quyền có thế, nhưng lại bỏ qua công lý và lòng nhân.
- Căn bệnh hình thức, nghĩa là thi hành thật chặt chẽ những nghi thức thanh tẩy, nhưng đàng khác, trong lòng « đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ » !
Thập Giá vừa làm cho những căn bệnh này hiện ra nguyên hình và những hậu quả khủng khiếp của chúng, và vừa mặc khải cho chúng ta khuôn mặt rạng người của Thiên Chúa là tình yêu và lòng thương xót, và con đường dẫn đến với Thiên Chúa, chính là con đường hiền lành và khiêm nhường của Đức Giê-su Ki-tô.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc