Tiếp
đến cậu Maximin Giraud bị ông thị trưởng Pierre Peytard hỏi cung ngày
21 tháng 9 năm 1846. Hai trẻ mục đồng cũng kể cho cha xứ Louis Perrin
nghe. Cha xứ kể lại cho giáo dân nghe trong bài giảng thánh lễ và ngày
mùng 4 tháng 10 cũng báo cho linh mục trưởng là cha
Pierre Mélin biết. Chuyện Đức Mẹ hiện ra lan chuyền nhanh trong xứ. Hai
trẻ mục đồng đã bị nhiều linh mục hỏi cung sau đó: trong tháng 10 năm
1846 bởi cha Mathieu Cat, linh mục giáo phận. Vào tháng 2 năm sau tới
phiên linh mục François Lagier một linh mục rất rành thổ ngữ địa phương.
Ông Jean Maximin Giraud cha của Maximin là người không sống đạo đã hoán
cải ngày mùng 8 tháng 11. Cuộc hành hương đầu tiên đã được tổ chức ngày
24 tháng 11 do chính hai trẻ mục đồng hướng dẫn. Ngày 16 tháng 4 năm
1847 hai em lại bị thẩm phán tỉnh Grenoble là ông Fréderic Joseph Long
hỏi cung. Chính trong ngày này đã xảy ra phép lạ khỏi bệnh liên quan tới
nữ tu Claire Peirron sống tại Avignon. Ngày 29 tháng 5 hai em lại bị
cha Pierre Lambert hỏi cung.
Ngày
31 tháng 5 năm 1847 đã có 5.000 tín hữu tham dự cuộc hành hương và một
cây thánh giá đã được dựng lên trên núi. Ngày 22 tháng 7 ĐC Clément
Villecourt, Giám Mục La Rochelle, đi hành hương La Salette và hỏi cung
Maximin và Mélanie. Ngày 15 tháng 8 lại xảy ra một vụ lành bệnh khác
liên quan tới Mélanie Gamon sống tại Corps, nhưng phép lạ được giữ kín.
Ngày
mùng 7 tháng 7 năm 1847 Đức Giám Mục giáo phận Grenoble xin các kinh sĩ
Pierre Joseph Rousselot và André Berthier cả hai là giáo sư đại chủng
viện Grenoble, hướng dẫn cuộc điều tra chi tiết về việc hiện ra và biên soạn một bản tường đầy đủ. Bản tường trình hoàn tất ngày 15 tháng 10 năm 1847.
Vào
tháng 11 năm 1847 Đức Giám Mục giao bản tường trình cho một uỷ ban điều
tra gồm 16 chuyên viên, dưới sự hướng dẫn của Đức Giám Mục giáo phận,
tất cả các vị đều là linh mục giáo phận: gồm các cha chính kinh sĩ, các
cha sở linh mục trưởng, cha sở kiêm giám đốc đại chủng viện.
**
Uỷ ban đã nhóm 8 phiên họp tất cả giữa tháng 11 và tháng 12 năm 1847.
Trong hai phiên họp có sự hiện diện của Mélanie và Maximin, hai em đã bị
hỏi cung rất lâu. Trong lần bỏ phiếu cuối cùng 12 trên tổng số 16 thành
viên của uỷ ban ủng hộ tính cách đích thực của việc Đức Mẹ hiện ra. Ba
trong 16 vị có các nghi ngờ liên quan tới vài yếu tố của việc hiện ra.
Và một vị là cha Jean Pierre Cartellier chắc chắn rằng vụ hiện ra là
giả.
Uỷ
ban đã kết thúc việc điều tra, và chấp thuận bản tường trình. ĐGM giáo
phận phải chờ đợi để chính thức công nhận việc hiện ra, lý do là vì giáo
phận Grenoble thuôc giáo tỉnh Lyon, mà ĐHY Bonald, TGM Lyon lại ủng hộ
lập trường của cha Cartellier.
Bản
tường trình được linh mục kinh sĩ Pierre-Joseph Rousselot công bố ngày
26 tháng 6 năm 1848 và được gửi cho ĐGH Pio IX vào tháng 8 năm 1848. Các
kết quả cuộc điều tra được Toà Thánh chấp nhận.
Ngày
19 tháng 9 năm 1851 ĐC Phillibert de Bruillard GM Grenoble công bố sắc
lệnh viết : « Chúng tôi xét rằng việc Đức Bà hiện ra với hai trẻ mục
đồng ngày 19 tháng 9 năm 1946 trên một ngọn núi thuộc dẫy Alpes, trong
giáo xứ La Salette, tuỳ thuộc vùng Corps, mang theo trong chính nó tất
cả các đặc tính của sự thật và các tín hữu đã xây dựng các lý do để tin
vào sự hiện ra một cách không thể nghi ngờ được và chắc chắn ».
Sắc
lệnh nhìn nhận của ĐGM Grenoble có tiếng vang rất lớn. Nhiều Giám Mục
cho đọc sắc lệnh trong các giáo xứ thuộc giáo phận của mình. Báo chí thì
chia ra làm hai phe phò và chống. Sắc lệnh cũng được dịch ra nhiều thứ
tiếng khác nhau và đặc biệt được đăng tải trên tờ Quan Sát Viên Roma của
Toà Thánh số ra ngày mùng 4 tháng 6 năm 1852. Toà Giám Mục Grenoble đã
nhận được nhiều thư chúc mừng. Nhưng kinh nghiệm và sự bén nhậy mục vụ
của ĐC Phillibert không ngừng ờ đó. Ngày mùng 1 tháng 5 năm 1852 ĐC công
bố một thư chính thức trong đó
ngài công bố quyết định xây đền thánh trên núi La Salette kính Đức Mẹ và
thành lập một nhóm thừa sai giáo phận có tên gọi là « Các thừa sai của
Đức Bà La Salette ». Nhưng ĐC thêm viết : « Đức Bà đã hiện ra tại La
Salette cho toàn thế giới : ai có thể nghi ngờ được điều đó ? ». Tương
lại đã xác nhận và vượt xa các chờ mong ấy. Người ta có thể nói rằng
Mélanie và Maximin đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Ngày 19 tháng 9 năm
1855 ĐC Ginoulhiac, tân Giám Mục Grenoble bổ túc tình hình như sau : «
Sứ mệnh của các em đã kết thúc, giờ đây bắt đầu sứ mệnh của Giáo
Hội ». Từ đó tới nay sau 170 năm đã có biết bao nhiêu tín hữu nam nữ
tìm thấy trong sứ điệp của La Salette con đường hoán cải, việc đào sâu
đức tin, năng động cho cuộc sống thường ngày, cũng như các lý do cho
việc dấn thân với và trong Chúa Kitô trong việc phục vụ con người.
**
Đền thánh Đức Bà La Salette nằm trên độ cao 1.800 mét, được xây theo
kiểu tân roman, có các phòng ốc rộng rãi để tiếp đón tín hữu và du khách
hành hương đến từ khắp nơi trong nước Pháp cũng như các nước Âu châu và
trên thế giới. Đền thánh cách xa làng gần nhất 14 cây số. Vương cung
thánh đường Đức Bà La Salette đã được bắt đầu năm 1852, hoàn thành năm
1865 và được tuyên bố là Tiểu vương cung thánh đường năm 1879. Đây là
một nhà thờ rộng lớn, có kiểu kiến trúc khắc khổ với hai tháp chuông đồ
sộ. Bên trong có hai hàng cột kiểu bisantin nâng đỡ mái vòm. Trên cung
thánh có một bức khảm đá mầu mosaic diễn tả cảnh Đức Mẹ ngồi khóc, sứ
điệp của Đức Mẹ và cảnh Đức Mẹ ra đi. Tiểu vương cung thánh đường cũng
bao gồm một viện bảo tàng nhỏ kể lại lịch sử Đức Mẹ hiện ra tại La
Salette. Bên ngoài vương cung thánh đường tín hữu hành hương có thể theo
một lối đi có trang hoàng các tượng bằng đồng dẫn tới nơi Đức Mẹ đã
hiện ra, nơi từ năm 1861 tới 1879 đền thánh đã được xây cất.
Thánh
giá La Salette là Thánh Giá Đức Mẹ đeo trên cổ theo lời kể của Maximin
và Mélanie. Giữa cánh ngang của Thánh Giá có một cái búa và các kìm,
dưới chân Thánh Giá có một chiếc sọ với hai xương ống chân chéo nhau.
Chiếc búa tượng trưng cho kẻ tội lỗi đóng đanh Chúa Giêsu vào thập giá
với các tội lỗi của mình. Các chiếc kìm biểu tượng cho các kitô hữu tìm
cách nhổ các đinh của thập giá qua cuộc sống thánh thiện và lòng trung
thành với Chúa. Chiếc sọ với các xương ống chân chéo nhau diễn tả cái
chết không thể tránh được đối với con người, nhằm nhắc nhớ sự cấp thiết
của ơn cứu độ.
Toàn
đền thánh Đức Bà La Salette được giáo phận Grenoble giao cho Hiệp hội
hành hương La Salette trông coi. Các Thừa sai và các nữ tu Đức Bà La
Salette bảo đảm việc linh hoạt và tổ chức các chương trình cho tín hữu
hành hương với sự cộng tác của các linh mục tuyên uý, giáo phận và dòng
tu cũng như các nữ tu và giáo dân. Có nhiều sinh hoạt khác nhau : đọc
Lời Chúa, chia sẻ về một đề tài xác định, các cuộc họp và gặp gỡ với các
tuyên uý, các cuộc triển lãm về truyền giáo và ơn gọi, việc cộng tác
với các nhóm khác nhau, việc tiếp đón các trẻ em vv… Ngày sống tại đền
thánh đập nhịp với việc cử hành bí tích Thánh Thể, kinh thần vụ, các
buổi canh thức cầu nguyện, các cuộc rước kiệu, lần hạt Mân Côi, đi Đàng
Thánh Giá cũng như các lúc thinh lặng cầu nguyện mà tín hữu hành hương
luôn luôn có thể làm trên các sườn núi hay trong các nhà nguyện dành
riêng cho việc này.
** Ba
năm sau biến cố được trông thấy Đức Mẹ hiện ra Maximin mất người em
cùng cha khác mẹ, mẹ kế là bà Marie Court và cha là ông Germain Giraud.
Maximin được giao cho người cậu Templier nuôi. Tại trường học chú bé
không tiến triển được bao nhiêu. Nữ tu bề trên Tecla gọi chú là « thằng
bé động đậy trọn đời ». Một nguời tự xưng là con của vua Louis XVI muốn
lợi dụng Maximin cho các mưu toan chính trị của ông. Mặc dù cha sở Corps
và ĐGM Grenoble cấm, những người này dẫn Maximin tới Ars để gặp cha sở
Jean Marie Vianney. Tuy không thích ở với các nhân vật này, nhưng
Maximin lợi dụng dịp tốt để chu du đó đây một chút. Họ được cha phó là
Raymond tiếp đón. Nhưng cha Raymond lập tức nói vụ hiện ra tại La
Salette là lừa đảo và Maximin là đứa bé nói dối. Sáng ngày 25 tháng 9
năm 1850 Maximin gặp cha Vianney hai lần. Kết quả là trong vài năm sau
đó cha Vianney không ngừng nghi ngờ và khổ đau. Còn Maximin thì lang
thang hết nơi này nơi khác : từ Tiểu chủng viện Grenoble tới Roma, từ
trường Tonerre cho tới Petit Jouy gần Versailles và Paris. Sau đó anh
làm việc trong một nhà hưu dưỡng, rồi là sinh viên y khoa thi rớt, làm
việc trong một tiệm bán thuốc tây, đầu quân trong đội lính của Toà
Thánh, rồi bỏ ngang trở về Paris. Anh tranh luận với báo Đời sống Paris
khi nhật báo này chỉ trích biến cố Đức Mẹ hiện ra tại La
Salette. Năm 1866 anh phát hành cuốn sách nhỏ « Lời thú nhận đức tin
của tôi vào sự hiện ra của Đức Bà La Salette ». Tiếp đến anh cũng hợp
tác với một người buôn rượu mạnh lợi dụng danh tiếng của anh để buôn
bán. Trong chiến tranh năm 1870 Maximin đầu quân tại Grenobe và sau cùng
trở về Corps và sống nghèo cùng với hai ông bà ân nhân Jourdain. Tháng 9
năm 1874 anh lên đền thánh Đức Bà và kể lại cho tín hữu nghe biến cố
Đức Mẹ hiện ra hồi năm 1846. Ngày mùng 2 tháng hai năm 1875 anh đến nhà
thờ giáo xứ lần cuối. Ngày mùng 1 tháng 3 cùng năm anh nhận của ăn đàng,
và qua đời năm phút sau đó khi chưa đầy 40 tuổi. Ước muốn cuối cùng anh
viết trong di chúc là dâng trái tim cho Đức Bà La Salette. « Tôi tin
vững vàng cả với giá máu của tôi vào việc hiện ra của Đức Rất Thánh
Trinh Nữ trên núi thánh La Salette ngày 19 tháng 9 năm 1846 : việc hiện
ra mà tôi đã bênh vực với lời nói, viết và khổ đau… với các tâm tình này
tôi xin dâng quả tim tôi cho Đức Bà La Salette ». Xác anh nghỉ yên
trong nghĩa trang làng Corps, nhưng quả tim của anh được giữ trong vương
cung thánh đường cạnh giàn đại phong cầm.
**
Còn chị Mélanie thì gia nhập dòng Chúa Quan Phòng ở Corps, là thỉnh
sinh, rồi tập sinh, được mọi người chú ý và thăm viếng. Nhưng ĐGM
Grenoble không cho khấn để tập cho chị biết sống khiêm nhường và đơn sơ.
Rất tiếc chị nghe lời những người bất an và bệnh hoạn thấm nhuần các
lời tiên tri dân gian và các lý thuyết giả thần bí và khải huyền. Chị
nói và viết những điều không đúng với các lời Đức Mẹ đã nói tại La
Salette, nhưng chỉ diễn tả các tước đoạt phải chịu thời thơ ấu. Ngay từ
năm 1854 ĐC Ginoulhiac đã viết : « Các lời tiên đoán được gán cho chị
Mélanie không có nền tảng, không quan trọng liên quan tới Sự Kiện của La
Salette… chúng sau Sự Kiện ấy và không liên quan gì tới nó ». Rất tiếc
chị Mélanie đã tiếp tục phổ biến các lời tiên trị của mình, được ông
León Bloy giàn dựng và tạo ra cả một trào lưu Mélanie, nhưng chỉ là các
khẳng định riêng của chị, không liên quan gì tới biến cố La Salette và
sự thật đức tin của Giáo Hội. Năm 1851 một linh mục người Anh đem chị
sang Anh quốc, chị gia nhập dòng kín Cát Minh Darlington, nhưng ra khỏi
dòng năm 1860. Sau đó chị thử gia nhập dòng các nữ tu Thương xót
Marseille, sống trong nhà của dòng bên Hy Lạp, rồi dòng Cát Minh
Marseille. Tiếp đến chị sang Italia sống tại Castellammare Sabbia gần
Napoli trong vòng 17 năm, viết các bí mật và một luật dòng mà chị muốn
thành lập. Toà Thánh khuyến cáo Giám Mục sở tại cấm không cho các loại
in ấn này lưu hành. Chị tiếp tục tìm kiếm các đồng minh cho phép in ấn
các tài liệu của mình. Sau một thời gian lang thang bên Pháp năm 1892
chị trở về Italia sống tại Lecce và viết một cuốn sách tự thuật được
tiểu thuyết hoá và chứa đựng các điều thần bí giả, các bóng ma và aỏ
tưởng của các người chị tiếp xúc, chứ không liên quan gì tới biến cố La
Salette. Sau cùng chị sống tại Altamura tỉnh Bari nam Italia, và qua đời
tại đây ngày 14 tháng 12 năm 1940.
TMH 522