Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

5 Phút cho Lời Chúa 11/11/2015

Filled under:

CHÍN NGƯỜI KIA ĐÂU?
Đức Giê-su nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17,17-18)
Suy niệm: “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Câu hỏi của Chúa Giê-su như xoáy vào ruột gan người nghe, lột trần tình trạng đức tin rỗng tuếch bên trong họ, một tình trạng như Chúa Giê-su đã từng nói rõ:  “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đó nhận” (Ga 1,11). Trong lúc đó, một người ngoại bang hay ngoại giáo được ơn tha thứ và được chữa lành bệnh tật cùng với “chín người kia,” lại mau mắn trở lại cảm tạ Chúa và tin vào Chúa. Việc trở lại thờ lạy và cảm tạ Chúa làm cho người ngoại giáo này khác biệt với chín người kia, hay nói cách khác, mười người được chữa lành nhưng chỉ có một người được cứu độ. Đối với người Do Thái, người ngoại giáo này đứng ngoài giao ước, ngoài lời hứa, ngoài dân Chúa, thế nhưng ông đã biết đi thẳng đến với Chúa Giê-su, hết lòng khiêm cung sấp mình dưới chân Đấng Thánh và tạ ơn Ngài. Lòng tin giúp ông biết đi “con đường tắt” đến với Chúa để lãnh ơn cứu độ, như Chúa nói: “Lòng tin của con đã cứu chữa con.”
Mời Bạn: Ơn Chúa dành cho bạn không đếm xuể, vậy đã có mấy lần bạn cảm tạ ơn Chúa và tin tưởng vào Ngài hơn? Trở lại, thờ phượng và cảm tạ Chúa là hành động của lòng biết ơn Chúa và của đức tin.
Sống Lời Chúa: Tham dự một thánh lễ trong tuần để cảm tạ Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn biết ơn Chúa và dùng đời sống của con diễn tả lòng biết ơn. Xin đừng để con câm nín trước vô vàn ơn Chúa ban.

THÁNH MACTINÔ GIÁM MỤC
Hằng năm, ngày 11 tháng 11, Giáo hội nước Pháp cũng như toàn thể Giáo hội công giáo hân hoan tưởng nhớ đến một vị tông đồ nhiệt tâm giầu lòng thương xót, hiện thân của bác ái công giáo. Đó là thánh Mactinô, một Giám mục của thế kỷ thứ IV, đã ngày đêm lặn lội trên những nẻo đường đồi núi để đưa bao nhiêu chiên lạc về đoàn chiên Chúa và tô điểm Giáo hội bằng những chuỗi ngày lam lũ truyền giáo và trầm lặng cầu nguyện. Nơi thánh Mactinô, chúng ta nhận thấy tập trung một đường lối tông đồ gương mẫu. Hết sức hoạt động nhưng cũng sống chiêm niệm nội tâm không kém. Mactinô chào đời trong một đồn binh của quân đội trú phòng tại Pannônia, ngày nay thuộc nước Hungari, bởi thân phụ cậu lúc ấy đang phục vụ trong quân đội Rôma. Lớn lên trong một gia đình ngoại giáo, nhưng Mactinô như được ánh sáng nhiệm mầu soi chiếu, cậu đã sớm nghĩ đến đời sống thầm lặng của một ẩn sĩ để đáp lại tiếng gọi tình yêu, từ cao ban xuống.
Lên 20 tuổi, Mactinô được cha mẹ gửi sang Ý du học. Sống giữa bạn hữu công giáo, hằng ngày được nghe nói đến Danh thánh Giêsu, Mactinô thấy trong người nổi lên những xao xuyến khác thường. Cậu nhất quyết tìm hiểu xem con người Giêsu là ai mà được nhiều người kính yêu đến thế. Sau những ngày dò hỏi, Mactinô như đã bị Chúa Giêsu xâm chiếm, cậu nhất định xin tòng giáo và sửa soạn chịu phép rửa tội. Nhưng công việc học đạo chưa xong thì Mactinô phải theo lệnh Hoàng đế nhập ngũ lên đường viễn chinh. Phục vụ trong đội cận vệ Hoàng đế, Mactinô vẫn thầm nguyện để mau được chịu phép rửa tội. Lúc này, Mactinô lại giằng co giữa hai cuộc sống: một cuộc sống chơi bời dâm đãng, bóc lột dân chúng, hà hiếp kẻ nghèo, và một cuộc sống thanh liêm, bác ái, trong sạch mà Mactinô đã học được ở Pannônia.
Nhưng cuối cùng đời sống trong sạch bác ái của Mactinô đã cải hóa được nhiều tâm hồn. Người ta thuật lại rằng: vào một ngày mùa đông giá lạnh, Mactinô đóng bộ quân phục đi ra cửa thành Amiena, gặp một người hành khất quần áo tả tơi, Mactinô động lòng thương, nhưng sờ trong mình không có cái gì có thể giúp đỡ người nghèo khó nọ. Chàng vội rút gươm ra, cắt chiếc áo đang mặc làm hai và cho người hành khất một nửa. Bị chúng bạn chê cười về hành động ngây thơ ấy, Mactinô vẫn lấy làm sung sướng vì đã xoa dịu nỗi khổ cực của người nghèo khổ một phần nào.
Mactinô hằng nhớ lời Chúa: "Ta trần truồng, các con đã cho Ta mặc", nên luôn luôn vui vẻ nghe lời chúng bạn chê cười. Và như để củng cố đức tin cho Mactinô, đêm hôm sau, Chúa Giêsu mặc manh áo Mactinô đã bố thí hôm trước hiện ra với chàng. Quá sung sướng, Mactinô xin chịu phép rửa tội ngay. Lòng mến Chúa yêu người sôi lên trong huyết quản, Mactinô liền xin giải ngũ để dễ lo việc Chúa hơn. Không được chấp nhận, Mactinô vẫn phải theo đoàn quân đi giao chiến nhiều nơi.
Sau cùng, vì thấy quá chán ngán việc binh đao, nên bộ chỉ huy đồng ý cho Mactinô được giải ngũ.
Mactinô đến Triviri thụ huấn bên cạnh Đức Giám mục. Năm 350, Đức Giám mục qua đời, thánh Hilariô lên kế vị và thánh Mactinô xin làm đồ đệ thánh Hilariô. Nhận thấy nơi Mactinô có dư thừa nhân đức và học thức, Đức Giám mục muốn phong chức phó tế cho ngài, nhưng vì lòng khiêm cung từ tốn, ngài chỉ xin chịu chức trừ quỷ mà thôi.
Ba năm sau, thánh nhân xin Đức Giám mục trở về quê cũ để khuyên bảo cha mẹ và anh em trở lại đạo Chúa. Trên đường về quê, thánh nhân bị một bọn cướp vây đánh, chúng định thủ tiêu ngài nhưng tên đầu đảng ngăn cản. Chúng liền trói ngài lại, lột hết quần áo, đồ dùng và hăm dọa: "Lúc này ngươi không sợ chúng ta saỏ". Thánh nhân mỉm cười ôn tồn bảo: "Tôi đi theo Chúa Giêsu, kẻ có lòng thanh sạch thì không sợ chết, chỉ có những ai lòng đầy vết nhơ mới sợ chết". Rồi thánh nhân giảng giải cho chúng về đạo Chúa. Động lòng, bọn cướp xin trả lại ngài quần áo và hứa trở về đường chính.
Về tới Pannônia, thánh Mactinô đã thuyết phục được bà mẹ theo đạo Thiên Chúa. Còn người cha cứ một mực từ chối không muốn trở lại. Buồn lòng, thánh nhân trở lại Gallia và để mặc cho Chúa Quan phòng định liệu cho gia đình, trong khi đó thánh Mactinô nghe tin Đức Giám mục Hilariô bị bọn người theo bè rối Ariô bắt đi đày. Ngài định ở thành phố Milanô và khởi sự lập một tu viện. Nhưng Đức Giám mục Milanô là người bênh vực bè rối nên đã thẳng cánh đuổi Mactinô ra khỏi địa phận. Thánh nhân cùng với một linh mục khác đi trốn trong một hòn đảo, và sau khi được tin Đức Giám mục Hilariô đã được tha, ngài liền trở về Poachiê và lập một nhà dòng tại Liguygê. Lúc này thánh nhân đã có phương tiện và thời cơ để thực hiện ý định phụng sự Thiên Chúa và thương giúp tha nhân.
Ở đây thánh nhân đã chiêu mộ được nhiều đồ đệ, nhiều người trong vùng lân cận đến xin học đạo với thánh nhân. Trong số những người học đạo, có một người được thánh nhân yêu thương cách riêng, một hôm ngài đi vắng, anh ta ngã bệnh chết mà không kịp chịu phép rửa tội. Anh em trong dòng buồn rầu không muốn chôn xác, cứ để vậy đợi cho tới khi thánh nhân về. Về tới nhà dòng thấy mọi người khóc lóc thảm thiết, thánh nhân bảo họ ra khỏi nhà, và ngài đến gần chỗ để xác, sấp mình cầu nguyện hồi lâu. Hai giờ sau, xác chết kia tự nhiên chỗi dậy đi đứng nói năng như thường. Các thầy hết sức vui mừng và hát khúc ca tạ ơn Chúa. Từ đó danh tiếng thánh nhân càng ngày càng đồn ra khắp nơi, khiến dân chúng đem lòng ái mộ và nhất quyết bầu ngài làm Giám mục, năm 371.
Lên làm Giám mục, thánh Mactinô vẫn luôn sống cuộc đời khắc khổ, không coi chức Giám mục như một vinh dự, nhưng ngài đã lợi dụng cơ hội này để lặn lội trên đường truyền giáo. Ngài đã thiết lập tu viện Mamuchiê, quy tụ được hơn 40 tu sĩ, ngày đêm chuyên lo cầu nguyện để công việc truyền giáo mau thành quả mỹ mãn. Sau nhiều ngày âm thầm cầu nguyện tại tu viện, thánh Mactinô đã dốc hết sức lực để lo việc truyền giáo trong khắp địa phận và các miền lân cận. Có thể nói được rằng: dưới thời Hoàng đế Gratianô, thánh Mactinô là một nhân vật lỗi lạc xuất chúng nhất trong việc truyền bá và duy trì đức tin công giáo. Thánh nhân đi từ làng này sang làng khác, từ những hang cùng ngõ hẻm tới những đô thị xa hoa. Đi đến đâu thánh nhân cũng cho tụ họp dân chúng thành từng đoàn và giải thích về đạo chân thật, đả phá những sai lầm dị đoan.
Thánh nhân có tài hấp dẫn dân chúng cách lạ thường đến nỗi có lần, sau khi giảng, hằng mấy trăm người xin học đạo một lúc. Theo thánh nhân, tự nhiên họ sẽ phá huỷ những đền thờ, đập vỡ những tượng quỷ tượng thần và hủy bỏ những mê tín dị đoan. Mỗi lần được chứng kiến phép lạ ngài làm thì dân chúng càng thêm tin tưởng vào đạo thánh nhân rao giảng. Người ta còn kể lại: một hôm đi đến một làng ngoại giáo, dân làng này rất sùng bái một cây thông cổ thụ, ngài yêu cầu chặt cây thông ấy đi. Dân làng đồng ý cho ngài chặt với điều kiện ngài phải đứng về phía cây sẽ đổ. Thánh nhân đồng ý, và dân chúng chắc chắn ngài sẽ chết. Nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, cây sắp đổ, thánh nhân dơ tay làm dấu thánh giá, cây lại dựng thẳng lên và đổ về phía khác. Thấy phép lạ ngài làm, dân chúng xin phá hủy đền thờ của họ và xin ngài xây nhà thờ thay vào đó.
Là vị tông đồ nhiệt thành của đồng ruộng và là linh hồn của phong trào truyền giáo, thánh Mactinô lại cũng có ảnh hưởng rất nhiều đối với các nhân vật cao cấp của xứ Gallia và nhất là đối với Hoàng đế. Tuy nhiên ngài không bao giờ tỏ thái độ nịnh bợ chính quyền như một số Giám mục thời đó. Chính vì thế, đời ngài không thiếu những gian truân cực khổ do các Giám mục khác gây nên. Nhưng ngài vẫn luôn luôn chịu đựng với tất cả tấm lòng quảng đại yêu thương. Đời thánh nhân gặp nhiều kẻ thù, nhưng lúc nào Chúa cũng nâng đỡ thánh nhân.
Trong tiểu sử ngài, người ta còn viết lại nhiều phép lạ ngài đã làm để cứu vớt dân chúng hay để tỏ phép cao cả Thiên Chúa. Lần kia cả một làng bị thần lửa tàn phá, gió to, lửa bốc cao lan rộng cả hàng ngàn nóc nhà, thánh nhân liền ngửa mặt lên trời cầu nguyện, tức khắc ngọn lửa tắt rụi, và đồ đạc nhà cửa không thiệt hại gì. Thế rồi, một hôm ngài trên đường đi thăm một họ ở miền hẻo lánh, những tên côn đồ định âm mưu giết ngài thì cánh tay chúng bị bại hoại, gươm rơi xuống đất, chúng ngã bất tỉnh vì quá sợ hãi. Thánh nhân liền cho chúng đứng dậy và khuyên bảo chúng hãy bỏ thói du côn du đồ để sống xứng đáng con người hơn. Nghe lời, nhiều người trong bọn họ xin theo làm môn đệ ngài.
Cuộc đời thánh Mactinô là cả một chuỗi ngày lao lung vất vả. Đau khổ vì anh em bội bạc, đau khổ vì nhiều người không nhận biết Thiên Chúa. Khi sức đã kiệt, tóc đã bạc, thánh nhân vẫn còn phải lo lắng dàn xếp những xung khắc giữa hàng giáo sĩ, và năm 397, khi đến Candes để giảng hòa một sự bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, thánh nhân đã ngã bệnh. Thấy sức của thầy ngày càng sút kém, các đồ đệ buồn rầu khóc lóc ngày đêm, vì rồi đây không còn ai lo lắng cho cuộc đời họ, nhưng thánh nhân đã  xin với Chúa: "Lạy Chúa, nếu đoàn con cái Chúa còn cần đến con, thì con cũng không quản chi đau khổ... Xin vâng ý Chúa". Rồi một ngày kia khi màn đêm xuống, thánh nhân nằm trên đống tro lạnh ngắt, mắt nhìn trời, hai tay giơ cao nói với môn đệ: "Các con hãy để cho cha nhìn trời cao và đừng bắt cha nhìn lại trần thế, để giờ đây lòng cha hướng về Thiên Chúa". Nói vừa dứt lời, ngài liền tắt thở.
Thánh nhân qua đi để lại cho chúng ta hình ảnh một vị tông đồ nhiệt thành, một người cha hiền từ giầu lòng yêu thương và một chiến sĩ can trường hoàn toàn bỏ quên thân mình, để chỉ lo cho danh Chúa được cả sáng, và cho tha nhân được an bình hoan lạc trong sự làm tôi Chúa.