Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016

Suy niệm với Mẹ ngày 4/1

Filled under:

“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”
(Mt 4,17).
Như Mẹ: Đức Giêsu đã đi khắp vùng Galilê để làm ba việc: dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh nhân. Đức Giêsu chỉ muốn làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đau khổ. Ngài loan báo Nước Trời đã đến gần và chứng tỏ cho thấy Nước ấy đã đến thật rồi qua việc chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Với Mẹ: Lạy Chúa Giêsu, xin cho những người nghèo khổ được an ủi, những người bệnh tật được đỡ nâng. Chúa đã dang tay chết trên thập giá, xin cho con người biết góp phần mà xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này.
Nhờ Mẹ: Lạy Mẹ là Nữ Vương các Thánh Tổ Tông, xin Mẹ giúp chúng con biết ăn năn sám hối, tin vào Chúa Giêsu và Tin Mừng về Chúa.
Trong Mẹ: Đức Bà tìm được Đức Chúa Giêsu trong đền thánh. Ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn.
 (Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh).

“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 4, 12-17. 23-25)
12 Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê.13 Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li,14 để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói:15 Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại!16 Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.17 Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”
18 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá.19 Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.”20 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. 21 Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông.22Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
23 Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.24 Danh tiếng Người đồn ra khắp xứ Xy-ri. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ.25 Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người.
  1. Tin Mừng Nước Trời (c. 12-17)
Trong mầu nhiệm Hiển Linh, có một nghịch lí thuộc về nghịch lý Tin Mừng, vì loan báo nghịch lý của mọi nghịch lý, đó là nghịch lý Mầu Nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính khi Hài Nhi Giê-su sắp được sinh ra bị từ chối trong các quán trọ, do đó, phải sinh ra trong cảnh nghèo hèn, như “một em bé, bọc tã nằm trong máng cỏ”, đơn sơ, khiêm tốn và hiền lành, một hoàn cảnh tưởng như là bất hạnh, nhưng lại được “Hiển Linh”, được tôn vinh đối với muôn dân nước, qua hình ảnh của các nhà đạo sĩ.
Và nếu chúng ta chiêm ngắm cuộc đời của Đức Giê-su, chúng ta sẽ nhận ra rằng nghịch lí Tin Mừng này sẽ được ghi khắc ở khắp nơi và làm nên nền tảng hay sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cuộc đời của Chúa, đến tận mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính khi Chúa phải đi lánh nạn, phải tránh né sự bách hại bạo lực và bất công, như bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp…”, thì lại là lúc lời ngôn sứ Isaia được ứng nghiệm, nghĩa là lời Kinh Thánh, là chương trình cứu độ của Thiên Chúa, được hoàn thành một cách lạ lùng và viên mãn :
  • « Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng ».
  • « Và những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. »
« Ánh sáng huy hoàng, bừng lên chiếu rọi » tương ứng với sự hiện diện của của Đức Giê-su công bố Nước Trời và là hiện thân của Nước Trời. Thật vậy, bài Tin Mừng kể lại :
Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: « Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. »
Nước Trời mà Đức Giê-su rao giảng mời gọi thực hiện hành trình sám hối. Bởi vì, để đón nhận Nước Trời, chúng ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta đón nhận Nước Trời, phải giữ khoảng cách với tất cả những gì không thuộc về hay không giúp hướng về Nước Trời. Nhưng đàng khác, Nước Trời cũng lôi kéo chúng ta và làm chúng ta say mê, vì Nước Trời làm cho no thỏa những khát vọng thâm sâu và mạnh mẽ nhất của con người. Loài người chúng ta dựng nên bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, vì thế, tự bản chất hướng về Nước của Thiên Chúa.

  1. Tin Mừng Nước Trời và ơn kêu gọi (c. 18-22)
Và đâu là nội dung của Tin Mừng Nước Trời? Đó là ơn gọi nhưng không (c. 18-22: phần này được Giáo Hội cho đọc vào ngày lễ Thánh An-rê Tông Đồ, 30/11), là Lời Chúa được lan truyền và là sứ mạng phục vụ cho sự sống (c. 23-25). Điều này giúp chúng ta hiểu ơn gọi của chúng ta một cách mới mẻ: ơn gọi của chúng ta thuộc về Tin Mừng Nước Trời, là dấu chỉ của Tin Mừng Nước Trời, của “Niềm Vui Tin Mừng”, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh cách đặc biệt. Thực vậy, đời dâng hiến, giữa đời hay trong một Hội Dòng, mà Giáo Hội cầu nguyện, suy tư, canh tân và cổ võ trong năm nay, là dấu chỉ sống động của Nước Trời.
Đức Giê-su đến tận nơi, gặp gỡ và kêu gọi hai lần, mỗi lần hai anh em (c. 18-20; 21-22). Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên có ba đặc điểm. Ba đặc điểm này cũng thuộc về mọi ơn gọi.
  1. Đức Giê-su đến tận nơi
Chính Đức Giê-su đến gặp gỡ tại nơi chúng ta đang sống, đang là…
  • Người đang đi… thì thấy…”
  • Đi một quảng nữa, Người thấy…”
Trong thực tế, chúng ta bỏ nhà đi theo Chúa trong một ơn gọi, nhưng khi đọc lại hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ nhận ra rằng, chính Người đi bước trước, đến tận nơi chúng ta đang ở, hiện diện trong hoàn cảnh của chúng ta, gặp gỡ chúng ta khi chúng ta đang loay hoay “với lưới với thuyền” cùng với những người thân yêu… Chính Người gõ cửa lòng chúng ta và mời gọi: “Hãy theo Thầy”.
  1. Sự nhưng không của tiếng gọi
Tiếp đến, chúng ta được mời gọi nhận ra tính nhưng không của ơn gọi. Thật vậy, Đức Giêsu gọi hai anh em Phêrô và Anrê, hai anh em Giacôbê và Gioan, như các ông đang là, đang lay hoay với công việc, với những bận tâm của riêng mình, đang bân rộn với lưới với thuyền cùng với những người thân, khi họ đang bận tâm với những vấn đề của cuộc sống. Ngài dường như không cần chuẩn bị “lâu dài” các ông rồi mới gọi; tiếng gọi của Đức Giêsu thật nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người nghe.
Tiếng gọi của Đức Giê-su dành cho mỗi người chúng ta cũng nhưng không như thế, dù trong thực tế đã diễn ra như thế nào và đã trải qua những thăng trầm nào. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa tự bản chất là nhưng không. Chúng ta đừng bao giờ để phai nhạt đi sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi nhưng không của Đức Giêsu: tại sao Chúa lại gọi con? Tại sao Chúa lại chọn con? Tại sao lại dẫn con đi trên con đường này? Tại sao Chúa lại sai con? Tại sao Chúa lại trao cho con sứ mạng này? Tại sao Chúa lại trao cho cho “chén” này?… Chúng ta hãy làm mới lại sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi của Đức Giêsu, vì đó là động lực giúp chúng ta làm mới lại lời đáp của chúng ta.
  1. Sức mạnh của tiếng gọi
Sau cùng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm sức mạnh của tiếng gọi. Thật vậy, tiếng gọi của Đức Giê-su mạnh đến độ làm bật tung « lập tức » (c. 20 và 22) các môn đệ đầu tiên ngay tại nơi các ông đang làm việc cùng với những người thân yêu, nơi ông gắn bó, nơi nuôi sống các ông và gia đình, nơi là sự nghiệp của ông, là cuộc đời của ông. Chúng ta còn chậm chạp và dây dưa trong cách đáp lại, chính là vì chúng ta chưa thực sự nghe được tiếng Chúa. Vì thế, chúng ta hãy ước ao và xin đích thân nghe được tiếng Chúa gọi với tất cả sức mạnh của Lời Chúa, không chỉ một lần, nhưng hằng ngày và suốt đời. Lời Chúa sẽ đụng chạm đến chốn sâu thẳm nhất nơi con người của chúng ta, sẽ lôi kéo và biến đổi chúng ta, vì Lời Chúa là Lời tạo dựng nên chúng ta.
Ơn gọi thiết yếu là một tương quan: Chúa gọi và chúng ta đáp lại, như trường hợp các môn đệ đầu tiên : Đức Giê-su mời gọi : « Các anh hãy đi theo tôi », và « lập tức các ông bỏ chài, bỏ thuyền, bỏ cha mà theo Người”. Vì đây là ơn gọi đầu tiên của mọi ơn gọi trong Giáo Hội mà Đức Giê-su sẽ thiết lập, nên cách Ngài gọi các môn đệ đầu tiên chính là nền tảng của mọi ơn gọi; và nền tảng thì luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, trong mỗi ngày sống và nhất là mỗi khi chúng ta lựa chọn. Ơn gọi hiểu như thế, thì không thể chỉ là một biến cố đã qua, nhưng phải được sống và hiện tại hóa hằng ngày, thậm chí phải diễn ra hằng ngày. Ngài đi ngang qua đời ta mỗi ngày, và lúc nào ngài cũng thấy chúng ta đang loay hoay làm cái gì đó, bận tâm chuyện gì đó. Ngài gọi chúng ta thật nhưng không, bao dung và quảng đại; và chúng ta được mời gọi đáp lại cách nhưng không, bao dung và quảng đại như lời đáp đầu tiên của chúng ta trong bước đường tìm hiểu và sống ơn gọi dâng hiến.
  1. Tin Mừng Nước Trời và sứ mạng phục vụ cho sự sống (c. 23-25)
Và cùng với Tin Mừng Nước Trời là dấu chỉ phục hồi sự sống: chữa bệnh và nhất là trừ quỉ.
Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ.
(c. 24)
Chúng ta thường bị ấn tượng và ưa thích những phép lạ chữa bệnh, vì bệnh tật làm cho con người khốn khổ. Tuy nhiên, bệnh tật lại thuộc về thân phận con người, đã là người thì phải trải qua, không tránh được: sinh lão bệnh tử; nhưng sự sống của con người còn bị quấy phá, bị chi phối bởi ma quỉ, bởi thần dữ mới là bi đát hơn, trong mức độ ma quỉ gieo vào lòng con người và vào tương quan giữa người với người sự nghi ngờ, loại trừ, bạo lực, ham muốn, ghen tị, dục vọng… Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những sự dữ này còn phá hoại sự sống của chúng ta hơn cả bệnh tật. Và chỉ có Lời Chúa, và tuyệt đỉnh là Lời Thập Giá (x. 1Cr 18, 1) mới có thể chữa lành, giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ.
* * *
Cuối cùng, chính khi Chúa bị từ chối, phải đi lánh nạn: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê” (c. 12), thì như bài Tin Mừng kể lại: “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người. dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người (c. 25).
Hình ảnh thật ấn tượng và thật đẹp, vì loan báo cho chúng ta mầu nhiệm Vượt Qua: chính khi Chúa chịu đóng đinh, là lúc Chúa biểu lộ căn tính thần linh và tình yêu thương xót rạng ngời nhất cho loài người chúng ta. Và ơn chữa lành khỏi sự chết, khỏi sự sợ hãi sự chết[1]đến từ sức mạnh và khôn ngoan của Thập Giá.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
[1] Bởi vì, theo mặc khải Kinh Thánh, loài người chúng ta không phải vì phạm tội mà trở thành tạo vật phải chết, nhưng là ngược lại: vì thân phận con người là phải chết, như sách Huấn Ca diễn tả: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất” (Hc 17, 1), hay nói cách khác, vì con người không phải là thần linh, nên con người đã phạm tội; như lời Con Rắn gợi ý: « Ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần… » (St 3, 5).