Thiên Chúa yêu thương mọi người, không trừ ai. Các tội
nhân là đối tượng của Lòng Chúa Thương Xót: “Ở
đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).
Nhà thần học luân lý
Bill Cosgrave đưa ra một số quan điểm từ thần học theo xu hướng chủ đạo về bản
chất tội lỗi theo đức tin Kitô giáo.
Từ
Công đồng Vatican II (1962-1965), chúng ta đã tiến bộ nhiều trong cách hiểu tội
lỗi. Không phải ai cũng có khả năng “theo kịp” cách hiểu mới này. Trong bài này
nói đến hoa quả chính của sự đổi mới theo cách hiểu về niềm tin Kitô giáo cơ
bản này của Giáo hội.
Chúng
ta bắt đầu bằng cách nhìn vào một số ý tưởng và hình ảnh mà các tác giả Kinh
thánh từ các thế kỷ đầu của Kitô giáo đã dùng để hiểu và giải thích tội lỗi. Rõ
ràng là từ Kinh thánh và từ các thế kỷ đầu đã cố gắng hiểu tội lỗi và đã thay
đổi nhiều. Thật vậy, nhiều thế kỷ qua đi, Giáo hội thấy rằng nhiều thứ không
sáng tỏ và không được phát triển rộng rãi hoặc kéo dài lâu. Chúng ta theo điều
này bằng cách tập trung vào cách nhìn hợp thức mới về tội lỗi phổ biến trong
Giáo hội Công giáo trong các thế kỷ qua cho tới Công đồng Vatican II.
HÌNH ẢNH TRONG THÁNH KINH
Kinh
thánh không miêu tả hệ thống về tội lỗi. Hơn nữa, Giáo hội dùng các hình ảnh
hoặc phép ẩn dụ để diễn tả giáo huấn, dù những thứ này không được thêm vào khái
niệm thần học về tội lỗi được Giáo hội diễn tả tỉ mỉ qua các thế kỷ. Đây là một
số cách hiểu về tội lỗi theo Kinh thánh.
Mất dấu: Hình ảnh này rất
quan trọng đặc biệt trong Cựu ước. Điều đó có nghĩa là không đạt được mục đích
hoặc thiếu Ý Chúa đối với chúng ta. Điều đó cũng có thể có nghĩa là phá vỡ thỏa
hiệp giữa 2 quốc gia.
Nổi loạn chống lại
Thiên Chúa:
Điều này được thấy trong thuật ngữ Giao ước và được coi là sự vi phạm cá nhân
hoặc nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Điều đó gợi lên cơn giận của Thiên Chúa và
đem lại hình phạt cho người xúc phạm.
Bất trung: Hình ảnh này thường
được dùng trong Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại. Từ đó, tội lỗi bị coi là
sự bất trung với Thiên Chúa.
Bất công và tội lỗi: Ở đây tội lỗi có vẻ
là sự bóp méo sự thật và thậm chí tội lỗi chỉ là bản chất xấu. Điều này làm
tăng mức tội lỗi, làm đồi bại các tội nhân và trở nên gánh nặng không thể chịu
nổi.
Một
số cách ẩn dụ hoặc hình ảnh đặc biệt được thấy trong cách diễn tả của Tân ước
về tội lỗi. Khi tội lỗi bị coi là hành vi cá nhân, nó cũng được coi là tình
trạng của tội nhân. Tân ước muốn nâng cao sự tập trung từ những hành động tội
lỗi cá nhân tới chính tội lỗi. Một người rơi vào tình trạng tội lỗi khi phạm
nhiều tội riêng. Nhưng tội lỗi cũng là sức mạnh trong nhân loại. Nó thúc đẩy
chúng ta phạm thêm tội lỗi và tạo sức mạnh của chính nó nhiều hơn. Thánh Phaolô
đã nói rằng tội lỗi thống trị thế giới. Nhưng Tân ước đã giới thiệu Chúa Giêsu
là Đấng chiến thắng tội lỗi. Ngài cho chúng ta thấy Tình yêu của Chúa Cha và do
đó tội lỗi là sự khước từ Tình yêu đó.
Các
hình ảnh khác về tội lỗi trong Kinh thánh là sự vô trật tự, sự bất chính, sự
chết, sự nói dối, sự điên rồ. Cũng nên chú ý rằng theo văn chương mà giới
Pharisêu đưa ra, chúng ta thấy tội lỗi được hiểu là sự vi phạm luật pháp. Cách
nhìn này được coi là rất ảnh hưởng.
HÌNH ẢNH TỘI LỖI TRONG TRUYỀN THỐNG KITÔ GIÁO
Các
hình ảnh quan trọng khác về tội lỗi được thấy trong truyền thống thần học Kitô
giáo.
Tránh mặt Thiên Chúa: Đây là một trong
các “định nghĩa” của thánh Augustinô về tội lỗi và được thánh Thomas Aquinas
phát triển. Điều đó nghĩa là đặt thụ tạo nào đó cao hơn Tình yêu Thiên Chúa và
tránh Thiên Chúa để quay sang thụ tạo. Nhưng điều này không dễ nhận ra trong
đời sống hàng ngày, phương pháp này có thể không lợi ích lắm khi thực hành.
Tội lỗi là vết nhơ: Hình ảnh này khá
thực tế khi coi tội lỗi là sự ô uế của một người. Điều này không nối tiếp trong
việc phân biệt điều nào là luân lý và phi luân lý hoặc giữa tự nguyện và không
tự nguyện, thế nên không sáng tỏ lắm.
Tội lỗi là bệnh tật: Hình ảnh này trở
lại chính Chúa Giêsu và liên kết với các hình ảnh về tội lỗi là tình trạng và
sức mạnh. Điều này đề xuất việc chữa lành là cách hiểu về sự giải hòa. Nó có
thể có giá trị, dù nó có thể có những khó khăn hiện tại liên quan trách nhiệm
đối với tội lỗi.
Tội lỗi là nghiện
ngập:
Ở đây tội lỗi có vẻ là sức mạnh có thể biến một người thành nô lệ. Theo sau có
thể là sự xa lánh và phân hủy. Tránh tội sẽ là một quá trình ở đây. Điều này có
thể là hình ảnh sáng tỏ nhưng có một số khó khăn, nhất là khi liên quan sự tự
do và trách nhiệm. Ngoài ra, nó không thể áp dụng đối với mọi tội lỗi.
Bây
giờ chúng ta đã sẵn sàng nhìn vào một số chi tiết khi hiểu về tội lỗi đối với
nhiều thế kỷ đã thấy rất sáng tỏ và hữu ích qua Giáo hội. Đây là kiểu hợp thức.
HIỂU ĐÚNG VỀ TỘI LỖI
Trong
cách hiểu về tội lỗi này được coi là vi phạm luật pháp, một trong Thập Giới
(Mười Điều Răn). Do đó, tội lỗi được hiểu là sự bất tuân. Vì luật pháp tập
trung vào những phần đặc biệt nhất, những hành động có thể nhận biết, quan điểm
về luật pháp cũng tương tự. Trong quá trình đó, nó nhấn mạnh quá mức sự tội lỗi
của các hành động như vậy, trong khi đánh giá không đủ mức về thực tế luân lý không
dứt khoát và hữu hình như thái độ, xu hướng, giá trị, mục đích và ưu tiên. Vì
vậy, các thần học gia thường nói tới cách hiểu về tội lỗi theo luật pháp là tập
trung vào hành động và khuyết điểm.
KHUYNH HƯỚNG CƯỜNG ĐIỆU
Phương
pháp này muốn tập trung vào các lĩnh vực đời sống luân lý Kitô giáo, nơi có
những luật rõ ràng – như Mười Điều Răn, Sáu Luật Hội Thánh, luật giới tính. Cũng
vậy, điều đó có xu hướng phóng đại tầm quan trọng và sự thường xuyên của tội
lỗi, nghĩa là phạm tội trọng khi “bỏ lễ Chúa nhật” hoặc “phạm tội luân lý khi
thủ dâm”. Hệ quả của việc nhấn mạnh thái quá này là kiểu hợp thức về tội lỗi
được trình bày khinh suất tội lỗi đối với các lĩnh vực khác, nghĩa là trong các
mối quan hệ và đời sống cộng đồng. Vả lại, kiểu hợp thức về tội lỗi, khi nó phát
triển, là rất cá nhân để coi thường nghiêm trọng về phương diện xã hội đối với
tội lỗi.
LẪN LỘN GIỮA VÔ LUÂN LÝ VÀ TỘI LỖI
Nhược
điểm khác của phương pháp này đối với tội lỗi là nó làm thành vấn đề – hành
động – yếu tố đầu tiên trong một tội lỗi. Lúc đó điều giả định là tác nhân hành
động với ý thức và tự do, là kết quả mà chúng ta có yếu tố như “phạm tội khi
không giữ chay ngày thứ Sáu hoặc ngừa thai”. Nói cách khác, kiểu hợp thức về
tội lỗi có xu hướng làm lu mờ cách phân biệt giữa vô luân lý và tội lỗi để coi
là tội trọng khi nó không thể là thực sự. Đây là lý do mà, kiểu hợp thức về tội
lỗi, ngay cả tội trọng cũng bị coi là khá bình thường trong đời sống Kitô giáo.
LÀM MẤT GIÁ TRỊ CẢ TRỌNG TỘI VÀ KHINH TỘI
Cách
hiểu này về tội đã nhấn mạnh nhiều về sự phân biệt giữa trọng tội (tội trọng)
và khinh tội (tội nhẹ). Cách nhấn mạnh này về tội trọng tạo ra xu hướng coi tội
nhẹ là “chuyện nhỏ” mà người ta không cần lo lắng nhiều.
Nhưng
không chỉ tội nhẹ bị đánh giá không đúng mức. Trong thực tế, cả tội trọng và
tội nhẹ là: tội nhẹ vì nó được coi là dễ phạm và do đó mà thường xuyên phạm, là
tội trọng vì nó được coi là quan trọng. Thế nên cả sự lo lắng và mối nguy hiểm
của sự giảm thiểu đều phổ biến trong cách sống Công giáo với kiểu hợp thức về
tội lỗi.
Cũng
phổ biến trong thần học luân lý trước Công đồng Vatican II, tâm linh là sự tuân
thủ pháp luật tuyệt đối và e dè thái quá, liên quan việc bóp méo đời sống luân
lý thấy dễ dàng dù tội lỗi được hiểu theo thuật ngữ pháp luật. Ngoài ra, tội
lỗi của một người thường được tính theo số lần phạm và Thiên Chúa thường được
tưởng tượng là một người siêu kế toán cộng gộp tất cả các hành vi nhân đức và
tội lỗi để quyết định số phận đời đời của người nào đó.
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI LỖI
Theo
cách nhìn này, hình phạt dành cho tội lỗi là tư tưởng trung tâm – hình phạt đưa
ra lúc này hoặc về sau. Dĩ nhiên, Thiên Chúa là người trừng phạt và nhà làm
luật, là cảnh sát và thẩm phán. Cho nên hình ảnh Thiên Chúa bị biến thành
“người hãm tài”, gợi lên nỗi sợ hãi và lo lắng trong nhiều người Công giáo.
SÁM HỐI VÀ THÚ TỘI
Sám
hối và kiểu hợp thức về tội lỗi đều giống nhau về cách phạm tội: Dễ dàng. Người
ta có thể hoàn tất điều đó, ngay cả sau khi phạm tội trọng, trong khoảng thời
gian tương đối ngắn. Xưng tội cũng thấy trong thuật ngữ pháp luật là tòa án với
thẩm phán và bị cáo. Như vậy có không khí trang trọng trong bí tích mà “thẩm
phán linh mục” thực hiện vai trò của mình là người chất vấn và quan tòa, và
thường “kê toa” những thuốc nghiêm khắc. Hối nhân thường cảm thấy bí tích Hòa
giải là một thử thách và cảm thấy “thở phào nhẹ nhõm” khi xưng tội xong.
VĨ NGÔN
Nói
tóm lại, từ cách trình bày về quan điểm pháp luật về tội lỗi, nó có thể được
coi là cách hiểu hợp thức về tội lỗi. Có những thuận lợi quan trọng, chẳng hạn cách
hiểu đó rõ ràng và đưa ra cách nhìn khách quan về trách nhiệm luân lý và về tội
lỗi. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn đầy những yếu kém và bóp méo thực tế về tội
lỗi. Từ Công đồng Vatican II đến nay vẫn cần có sự canh tân thường xuyên về
thần học luân lý để Lòng Chúa Thương Xót được hiểu đúng và được thể hiện đúng
theo Tôn Ý Thiên Chúa.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ CatholicIreland.net)
Sống Thử và Bất Ổn
Ngày xưa người ta
quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân”, quan niệm sống đầy tính luân thường đạo lý
và nhân bản, nhưng ngày nay người ta “chỉnh sửa” quan niệm đó thành “nam nữ cọ
cọ sát thân”. Cách nghĩ quá “thoáng” như vậy trở thành táo bạo và tội lỗi!
Người
ta còn cho rằng cứ sống thử trước, nếu hợp thì… sống tiếp, không hợp thì chia
tay. Quá dễ dãi! Và quan niệm mà người ta cho là tân kỳ và thoáng như vậy lại
chỉ là quan niệm sai lầm mà thôi. Sự bất ổn gia đình tiếp tục tăng ở Hoa Kỳ mặc
dù giảm tỷ lệ ly hôn đối với các gia đình. Các nhà nghiên cứu nói rằng mức tăng
về việc sống thử (sống chung chạ như vợ chồng mà không kết hôn) là một phần của
vấn nạn gia đình.
Ngày nay, tỷ lệ ly hôn cao. Nhiều người muốn
cứu vãn hôn nhân của mình đang trên bờ vực thẳm ly hôn, người ta đã phải đôn
đáo tìm nhà tư vấn. Vì thế, các trung tâm tư vấn (tình yêu, hôn nhân, gia đình,
và các vấn đề khác) lần lượt xuất hiện nhiều, ngay cả báo chí cũng thường có
mục tư vấn, và các đài phát thanh hoặc truyền hình cũng có các chương trình tư
vấn.
Giáo
sư W. Bradford Wilcox, thuộc ĐH Virginia và Trung tâm Hôn nhân và Gia đình của
Viện Giá trị Hoa Kỳ (Institute for American Values’ Center for Marriage and
Families) tại New York, nhận xét: “Tỷ
lệ ly hôn đối với các cặp vợ chồng đã trở lại mức mà chúng tôi thấy trước cuộc
cách mạng ly hôn hồi thập niên 1970. Tuy nhiên, tính bất ổn gia đình lại đang
gia tăng đối với con cái người Mỹ. Điều này có vẻ chiếm một phần vì nhiều cặp
vợ chồng có con cái sống thử, và điều này rất bất ổn”.
Ngày
nay, hơn 40% thanh thiếu niên Hoa Kỳ đều sống thử. Họ muốn có kinh nghiệm chia
tay của cha mẹ hơn so với những đứa con của các cặp vợ chồng kết hôn. Tại Hoa
Kỳ, tỷ lệ chia tay cao hơn so với những đứa con của các cặp sống thử, lên tới
170%. Việt Nam cũng đang có nguy cơ tương tự, đạo đức luân lý suy thoái nên sự
“dễ dãi” về tình dục cũng dần dần “thoáng” hơn!
GS
Bradford Wilcox nói rằng con cái của các cha mẹ sống thử sẽ bị rắc rối nhiều
hơn về các vấn đề xã hội và tình cảm (lạm dụng ma túy, trầm cảm, bỏ học sớm,
yêu đương nhăng nhít,…) so với những đứa con có cha mẹ kết hôn hẳn hoi. Nghiên
cứu này được thực hiện với 250 bài viết về hôn nhân & gia đình ở Hoa Kỳ và
khắp thế giới. Nghiên cứu này cũng phân tích các dữ liệu của số liệu Khảo sát
Xã hội tổng quát và Khảo sát Thu nhập và Tham gia Chương trình (General Social
Survey and the Survey of Income and Program Participation).
Bản
tường trình cho biết thêm: “Dù
chúng ta thành công hay thất bại trong việc xây dựng văn hóa hôn nhân lành mạnh
thì rõ ràng cũng là mối quan tâm chung hợp pháp và là vấn đề tối quan trọng nếu
chúng ta muốn đảo ngược tình trạng cách ly khỏi nhịp phát triển xã hội của các
thành viên dễ bị tổn thương nhất trong xã hội của chúng ta: giới lao động, dân
nghèo, dân tộc thiểu số, và con cái”.
Con
cái của các cặp sống thử có thể bị lạm dụng về thể lý, tình dục hoặc tình cảm
gấp 3 lần so với con cái của các cặp vợ chồng vẫn nguyên vẹn hôn nhân. Các nhà
nghiên cứu cũng phát hiện tính bất ổn gia đình cũng góp phần phan biệt giai
cấp, phe cánh. Con cái của các cha mẹ có học thức thấy cuộc sống gia đình họ ổn
định, còn con cái của các cha mẹ ít học lại thấy cuộc sống gia đình họ càng
ngày càng bất ổn. Những người sống dư dả tận hưởng gia đình “vững mạnh và ổn
định”, còn những người khác đối mặt với gia đình “càng bất ổn, càng bất hạnh và
càng mất tác dụng”.
Ly
hôn liên quan con cái trở lại mức trước khi luật hôn nhân thay đổi để dễ ly hôn
hơn. Khoảng 23% con cái có cha mẹ kết hôn đầu thập niên 1960 đều biết cha mẹ ly
hôn khi chúng được 10 tuổi. Cũng gần tương đương tỷ lệ đó đối với con cái có
cha mẹ kết hôn năm 1997.
Các
tác giả của bản tường trình kết luận rằng hôn nhân nguyên vẹn giữa cha mẹ vẫn
là “tiêu chuẩn vàng” đối với đời sống gia đình tại Hoa Kỳ. Ngày 16-8-2011, Viện
Giá trị Hoa Kỳ cho biết: “Con
cái có thể phát triển tốt hơn về kinh tế, xã hội và thể chất nếu chúng sống
trong các gia đình theo chuẩn này”. Hôn nhân là “điều tốt quan yếu của cộng
đồng” với nhiều lợi ích về kinh tế, sức khỏe, giáo dục và an toàn, giúp ích hơn
cho xã hội và chính phủ phục vụ công ích.
Lợi
ích của hôn nhân cũng lan rộng tới người nghèo, giới lao động và dân tộc thiểu
số, mặc dù có việc suy yếu hôn nhân trong 4 thập niên qua. Viện Giá trị Hoa Kỳ
kết luận:“Việc sống thử gia tăng là mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng và
tính ổn định của đời sống con cái trong các gia đình ngày nay”.
Tóm
lại, sống thử hoàn toàn bất lợi – cả về tâm lý lẫn sinh lý, kéo theo hệ lụy làm
suy giảm sức khỏe, điều mà khoa học cũng đã chứng minh. Xưa nay, xã hội vẫn đề
cao việc “nam nữ thọ thọ bất thân”, chỉ bắt đầu “chuyện ấy” trong đêm động
phòng, dành cho nhau những giây phút thăng hoa cao thượng nhất, và nhiều tôn
giáo cũng khuyến cáo chuyện sống thử hoặc “ăn cơm trước kẻng”.
TRẦM THIÊN THU
Biện Pháp Tránh
Thai và Tòa Cáo Giải
Nhiều người “chuyên nghiệp” trong việc tiết chế và sử
dụng các biện pháp tránh thai (đa số là người Công giáo) sẽ nói rằng “Đừng
làm ‘chuyện ấy’, nhưng nếu làm thì hãy dùng biện pháp tránh thai”,
vì mang thai ở tuổi thiếu
niên là sự nhục nhã. Họ nói rằng cách đó khá hiệu quả, và họ còn
cho rằng “có làm tình thì cũng chẳng sao”.
Nhiều người vẫn đều
đặn xưng tội hằng tháng. Họ cho linh mục biết vợ chồng họ đã ly thân, lười
biếng, kiêu ngạo, ham muốn. Họ nói: “Đừng phạm tội”, rồi biện
hộ: “Trong sự khôn ngoan, Giáo hội biết chúng ta sẽ vẫn phạm
tội, thế nên Giáo hội cho chúng ta bí tích Hòa giải”. Nghĩa
là: “Đừng phạm tội, nhưng nếu phạm tội
thì cứ đi xưng tội là được” – như vậy, về thực tế, việc xưng tội chẳng khác
gì “dùng bao cao-su”.
Nếu chúng ta đang
coi việc xưng tội là như vậy, chúng ta
hoàn toàn sai lầm. Mục đích của việc dùng bao cao su là để giảm hậu quả; mục
đích của việc xưng tội là thay đổi cách xử sự và đổi mới tâm hồn. Hoàn toàn
khác nhau.
Lưu ý: Đối với các
bí tích khác, hoặc đối với bất kỳ người Công giáo nào, thực tế của vấn đề rất
sâu xa và thâm thúy, thế nên đối với những người phản đối cũng vậy. Nhưng chúng
ta hãy cố gắng hiểu rõ vấn đề.
Nếu bạn thực sự
không muốn thay đổi các cư xử và bắt tâm hồn chúng ta biến đổi, chúng ta sẽ mất
những gì Thiên Chúa trao ban cho chúng ta qua bí tích. Dùng bao cao-su là cho
rằng thiếu niên không chịu trách nhiệm. Xưng tội là không chịu khước từ sự vĩ
đại.
ĐGH Bênêđictô XVI nói: “Những cách của Thiên Chúa không dễ dãi. Chúng
ta không được tạo nên để sống thoải mái, mà để sống vĩ đại. Thế giới cần những
con người vĩ đại, những thánh nhân, vậy tại sao chúng ta lại không sống như vậy?
Làm sao xưng tội tốt? Trước khi xưng tội, hãy
xét mình kỹ lưỡng. Sau khi xét mình, hãy nghiêm túc nghĩ về tình trạng của mình.
Bạn có thực sự buồn vì điều sai lầm mình đã làm? Hãy cân nhắc xem cuộc sống sẽ
thay đổi thế nào nếu bạn làm những điều tốt. Bạn có thực sự muốn hành động khác?
Hoặc bạn có biết đó là tội lỗi? Vậy bạn có muốn dừng lại? Bạn có muốn tác dụng?
Hãy cảnh giác với những cám dỗ, khi nó xảy ra, hãy thẳng thắn từ chối. Có thể
lần này chưa chiến thắng nó, nhưng lần sau bạn sẽ chiến thắng nó.
Cuối cùng, Công giáo
không trả lời chính xác về điều bạn đã
làm hoặc đã nói, nhưng là tâm hồn bạn thực sự ở chỗ nào. Các lời
nói, hành động, và thái độ sẽ “tố giác” nơi tâm hồn bạn đang ở. Cố ý thay đổi lời
nói, hành động, và thái độ có thể lay động tâm hồn bạn.
Cũng như các bí tích
khác, việc xưng tội xảy ra vào một lúc nào đó. Đó là đường vạch trên cát sau
những thứ khác. Điều quan trọng là “sau lúc đó” không còn là đường vạch nữa. Việc
xin lỗi huấn luyện viên vì bạn đã bỏ tập luyện, nhưng hãy trở lại buổi tập, bạn
sẽ là cầu thủ khá hơn.
Thánh GH Gioan XXIII
nói: “Điều này phải dừng lại, một lần và mãi mãi… từ nay trở đi, tôi sẽ sống
tốt!” (Journal of a Soul, 28-3-1898).
Đó là tinh thần! Đừng
nghĩ bạn sẽ lại làm điều đó, tái phạm các tội đó. Hãy nâng thanh chắn lên, và
hy vọng thật nhiều. Đường vạch đã vẽ. Mọi thứ đã khác. Xưng tội không như bao
cao-su, mà là khước từ đầu hàng. Tôi sẽ không làm nô lệ cho tội lỗi
nữa!
Hãy thực tế. Nếu bạn
yếu đuối, hãy lập kế hoạch. Đôi khi các linh mục dạy làm việc đền tội trực
chiến với sự yếu đuối của bạn. Một linh mục nói với tôi rằng đã từng xưng thú
tội không kiên nhẫn, và linh mục giải tội đã bảo tìm cách đứng xếp hàng dài ở
một cửa tiệm, khi sắp đến lượt mình thì lại xuống đứng ở chỗ cuối – đó là tập
kiên nhẫn. Lúc đó bạn có thể thú vị khi nói chuyện với người khác.
Nếu bạn không may mắn,
hãy lập kế hoạch. Học kiên nhẫn khi xếp hàng chờ ở cửa tiệm để đủ kiên nhẫn
trong gia đình; hoặc quy luật để sống theo quy luật.
Thánh Phanxicô Salê khuyên
tập chống lại chước cám dỗ khi cầu nguyện vào buổi sáng. Sẽ đối mặt với loại
cám dỗ nào? Tự chuẩn bị ra sao? Quan trọng là luôn cầu xin ơn Chúa. Đừng ngưng
cầu nguyện. Khi chúng ta sạch tội, hãy lấp đầy lòng mình bằng ân sủng!