Các hình thức tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa.
Mẫu của tấm hình Lòng Thương Xót Chúa đã do chính Chúa Giêsu cho chị Faustina thấy trong thị kiến ngày 22 tháng 2 năm 1931 trong phòng của tu viện tại Plock.
|
Roma (Vat. 25-12-2015) - Có nhiều hình thức trong việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa:
Thứ nhất là hình Lòng Thương Xót Chúa.
Mẫu của tấm hình này đã do chính Chúa Giêsu cho chị Faustina thấy trong thị kiến ngày 22 tháng 2 năm 1931 trong phòng của tu viện tại Plock. Chị ghi lại trong nhật ký như sau: "Ban chiều khi đang ở trong phòng của mình, tôi trông thấy Chúa Giêsu mặc chiếc áo trắng: một tay giơ lên để chúc lành, trong khi tay kia chạm vào áo trên ngực, từ đó nhích ra bên cạnh để cho hai luồng sáng lớn phát ra, một đỏ, một nhạt ... Sau một chút Chúa Giêsu nói với tôi: "Con hãy vẽ một hình giống mẫu con trông thấy, bên dưới viết: "Giêsu, con tín thác nơi Chúa!" (Nhật ký r. 74). "Cha muốn tấm hình này được làm phép một cách trọng thể vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh, Chúa Nhật này phải là lễ của Lòng Thương Xót" (Nhật ký, tr. 75).
Ý nghĩa tấm hình này gắn liền một cách mật thiết với phụng vụ của ngày Chúa Nhật đó. Trong ngày này Giáo Hội đọc Phúc Âm theo thánh Gioan miêu tả biến cố Chúa Giêsu phục sinh hiện ra trong Nhà Tiệc Ly và việc thành lập bí tích sám hối (Ga 20,19-29) Như thế, bức hình diễn tả Chúa Cứu Thế phục sinh đem đến cho cọn người niềm an bình với việc tha thứ các tội lỗi, với giá trả là cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người trên thập giá. Các tia sáng của máu và nước vọt ra từ trái tim Chúa Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu và các vết sẹo của các thương tích của việc đóng đanh đưa chúng ta trở về với các biến cổ của ngày Thư Sáu Tuần Thánh (Ga 19,17-18.33-37). Hình Chúa Giêsu Thương Xót quy tụ trong nó cả hai trình thuật nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Trong hình của Chúa Kitô có hai tia ánh sáng. Thánh nữ Faustina hỏi Chúa Giêsu ý nghĩa của hai tia ánh sáng này và Ngài giải thích chúng như sau: "Tia sáng lạt diễn tả Nước khiến cho các linh hồn nên công chính; tia sáng đỏ diễn tả Máu là sự sống của các linh hồn. Phúc cho người sống dưới bóng chúng" (Nhật ký, tr.235). Linh hồn được thanh tẩy bởi bí tích rửa tội và bí tích sám hối, trong khi lương thực tốt nhất cho nó là bí tích Thánh Thể. Như vậy, hai tia sáng này biểu tượng cho các bí tích thánh và tất cả mọi ân sủng của Chúa Thánh Thần, có biểu tượng kinh thánh là nước, và cả giao ước mới của Thiên Chúa với con người được ký kết bằng máu Chúa Kitô.
Hình của Chúa Giêsu Thương Xót thường được gọi là hình Lòng Chúa Thương Xót, bởi vì trong mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô tình yêu của Thiên Chúa đối với con người được vén mở một cách rõ ràng hơn. Bức hình không chỉ diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, mà con nhắc cho kitô hữu nhớ tới bổn phận phải tin cậy đối với Thiên Chúa và sống lòng bác ái tích cực đối với tha nhân. Trong phần dưới của bức hình - do ý muốn của Chúa Kitô - có viết các lời: "Giêsu, con tín thác nơi Chúa". Ngoài ra Chúa Giêsu còn nói: "Bức hình này phải nhắc nhớ các đòi buộc của Lòng Thương Xót của Cha, bởi vì cả lòng tin mạnh mẽ nhất cũng không ích lợi gì, nếu không có các việc làm" (Nhật ký, tr. 457).
Chúa Giêsu đã đưa ra các lời hứa lớn lao cho những ai tôn kính ảnh Chúa Giêsu Thương Xót: ơn cứu rỗi đời đời, các tiến bộ trên con đường hướng tới sự trọn lành kitô, ơn có một cái chết hạnh phúc và các ơn khác nữa, nếu con người xin chúng với lòng tin tưởng. "Qua bức hình này Cha sẽ ban nhiều ơn cho các linh hồn, vì thế mỗi linh hồn phải có thể đến với nó" (Nhật Ký, tr. 379).
Thứ hai là lễ kính Lòng Thương Xót.
Nó chiếm chỗ quan trọng nhất trong tất cả mọi hình thái tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa đã được vén mở cho thánh nữ Faustina. Lần đầu tiên Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ về việc thành lập lễ này là tại Plock vào năm 1931, khi Ngài truyền cho thánh nữ ý muốn của Ngài liên quan tới bức hình: " Cha ước ao rằng bức hình mà con sẽ vẽ bằng bút, được làm phép cách long trọng trong ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh; Chúa Nhật này phải là lễ của Lòng Thương Xót" (Nhật ký, tr. 75).
Việc chọn ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh làm ngày lễ lòng thương xót có một ý nghĩa thần học sâu xa, cho thấy mối dây liên lạc mạnh mẽ giữa mầu nhiệm phục sinh của việc Cứu Chuộc và mầu nhiệm Lòng Thương Xót Chúa. Mối dây này được nhấn mạnh về sau bởi Tuần Cửu Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót, trước ngày lễ và bắt đầu vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, trong đó tín hữu lần hạt kính Lòng Thương Xót.
Ngày lễ không phải chỉ là một ngày đặc biệt tôn thờ Thiên Chúa trong mầu nhiệm lòng thương xót, nhưng còn là thời gian ơn thánh cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đã nói: "Cha ước mong rằng lễ Lòng Thương Xót là sự bảo vệ và ẩn náu cho tất cả mọi linh hồn, và cách đặc biệt cho các kẻ tội lỗi đáng thương" (Nhật ký, tr. 440). "Các linh hồn hư đi mặc dù Cuộc Khổ Nạn đau thương của Cha. Cha ban cho chúng lần cứu rỗi cuối cùng, nghĩa là lễ Lòng Thương Xót của Cha. Nếu chúng không tôn thờ Lòng Thương Xót của Cha, chúng sẽ chết đời đời" (Nhật ký, tr. 561).
Tầm quan trọng của ngày lễ này được đo lường với các lời hứa ngoại thường mà Chúa Giêsu đã cột buộc vào nó. Chúa Giêsu đã nói: "Trong ngày đó, ai đến gần suối nguồn sự sống, người đó sẽ được tha hết mọi tội và hình phạt" (Nhạt ký, tr. 235). "Trong ngày đó ruột Lòng Thương Xót của Cha sẽ mở ra, Cha sẽ tuôn đổ cả một biển ơn thánh trên các linh hồn đến gần suối nguồn Lòng Thương Xót của Cha ... Ðừng có linh hồn nào sợ hãi đến gần Cha, cả khi tội lỗi của nó có đỏ như son đi nữa" (Nhạt ký, tr. 441).
Ðể được các ơn lớn lao này cần phải chu toàn các điều kiện của việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa (tin tưởng nơi lòng nhân lành của Thiên Chúa và sống bác aí tích cực với tha nhân), ở trong tình trạng ơn thánh (sau khi xưng tội) và rước lễ một cách xứng đáng. "Không có một linh hồn nào sẽ tìm được sự công chính hoá cho tới khi nào hướng tới Lòng Thương Xót Cha với sự tin tưởng, và vì thế ngày Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh phải là lễ Lòng Thương Xót, và các linh mục trong ngày đó phải nói với các linh hồn về Lòng Thương Xót vĩ đại và khôn dò của Cha" (Nhật ký, tr. 378).
Thứ ba là Chuỗi nhỏ Lòng Thương Xót Chúa.
Nó đã được Chúa Giêsu đọc cho thánh nữ Faustina ghi lại tại Vilnius ngày 13-14 tháng 9 năm 1935 như là lời cầu nguyện giúp nguôi cơn giận của Thiên Chúa (Nhật ký tr. 327-329). Ai đọc chuỗi nhỏ này thì dâng lên Thiên Chúa Cha "Thân xác, Máu, Linh Hồn và Thiên Tính" của Chúa Giêsu Kitô để khẩn nài lòng thương xót cho các tội riêng, cho các tội của tha nhân và của toàn thế giới, đồng thời trong khi kết hiệp với hiến lễ của Chúa Giêsu cũng hướng tới tình yêu mà Thiên Chúa Cha trên trời ban cho Chúa Con, và trong Người ban cho tất cả mọi người.
Với lời cầu này người ta cũng xin "lòng thương xót cho chúng ta và cho toàn thế giới",và như thế người ta chu toàn một cử chỉ của lòng thương xót. Với sự tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa và việc gắn bó với ý muốn của Ngài, tín hữu có thể chờ đợi việc thành toàn các lời hứa của Chúa Kitô, cách riêng các lời hứa liên quan tới giờ chết: ơn hoán cải và một cái chết thanh thản. Không chỉ những ai lần hạt kính Lòng Thương Xót sẽ nhận được các ơn đó, nhưng cả người hấp hối mà người ta lần hạt kính Lòng Thương Xót bên cạnh họ nữa. Chúa Giêsu đã nói: "Khi chuỗi Lòng Thương Xót được lần bên cạnh người hấp hối, cơn giận của Thiên Chúa được nguôi ngoai, và Lòng Thương Xót khôn dò bao bọc linh hồn" (Nhật ký, tr. 487). Lời hứa tổng quát nói rằng: "Vì việc lần hạt này Cha thích ban cho tất cả những gì họ sẽ xin Cha" (Nhật ký, tr. 806). "Với chuỗi lòng thương xót con sẽ được mọi sự, nếu điều con xin phù hợp với Ý muốn của Cha" (Nhật ký, tr. 897). Thật thế, tất cả những gì trái nghịch với ý muốn của Thiên Chúa thì không phải là một thiện ích cho con người, và cách riêng cho hạnh phúc vĩnh cửu của nó.
Trong một lúc khác Chúa Giêsu nói: "Với việc lần chuỗi lòng thương xót còn đưa nhân loại tới gần Cha" (Nhật ký, tr. 543). "Lòng Thương Xót của Cha sẽ bao bọc trong khi sống và đặc biệt trong giờ chết các linh hồn sẽ lần chuỗi hạt này" (Nhật ký tr. 463).
Thứ tư là giờ của Lòng Thương Xót.
Vào tháng 10 năm 1937 tại Cracovia Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina tôn kính giờ chết của Chúa. "Mỗi khi con nghe đồng hồ điểm ba giờ, hãy nhớ dìm toàn thân mình con trong Lòng Thương Xót của Cha, bằng cách thờ lậy nó và chúc tụng nó; hãy khẩn nài quyền năng của nó cho toàn thế giới và đặc biệt cho các kẻ tội lỗi đáng thương, bởi vì chính trong giờ đó Lòng Thương Xót được mở toang ra cho mọi tâm hồn" (Nhật ký, tr. 820).
Rồi Chúa nói thêm: "Con gái của Cha, trong giờ đó hãy đi Ðàng Thánh Giá, nếu các bổn phận không cho phép con, và nếu con không đi Ðàng Thánh Giá được, thì ít nhất hãy vào nhà nguyện một lúc và tôn kính Trái Tim Cha trong Bí Tích Cực Thánh tràn đầy Lòng Thương Xót. Và nếu con không thể đến nhà nguyện, thì hãy cầm trí cầu nguyện ít nhất trong một lúc ngắn tại nơi con đang ở" (Nhật ký, tr. 820)
Giáo sư thần học gia Rozycki chỉ ra các điều kiện để lời cầu nguyện nói lên trong lúc đó được lắng nghe: nó phải hướng về Chúa Giêsu và được đọc vào lúc 3 giờ chiều, phải quy chiếu các giá trị và công nghiệp Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã hứa: "Trong giờ đó con sẽ được tất cả cho con và cho các người khác, trong giờ đó ơn thánh được ban cho toàn thế giới, Lòng Thương Xót chiến thắng công lý" (Nhật ký tr. 820).
Thứ năm là phổ biến việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa.
Theo giáo sư thần học gia Rozycki lời Chúa Giêsu hứa cũng liên quan tới việc phổ biến lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa. "Các linh hồn phổ biến việc tôn sùng Lòng Thương Xót của Cha, Cha che chở họ suốt đời, như một bà mẹ dịu dàng che chở đứa con thơ còn đang bú sữa, và trong giờ chết Cha sẽ không là một thẩm phán đối với chúng, nhưng là Ðấng Cứu Ðộ xót thương" (Nhật ký tr. 604).
Nòng cốt của việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa hệ tại thái độ của tín hữu kitô tin tưởng nơi Thiên Chúa và sống bác ái tích cực đối với tha nhân. Chúa Giêsu đòi hỏi lòng tin tưởng của các thụ tạo (x, Nhật ký tr. 597) và các việc bác ái, bằng hành động, lời nói và lời cầu nguyện. "Con phải cho thấy lòng thương xót đối với tha nhân luôn luôn và ở khắp mọi nơi: con không thể miễn cho mình điều này, cũng không được khước từ hay biện minh cho mình" (Nhật ký, tr. 457). Chúa Kitô muốn rằng các người tôn kính Ngài mỗi ngày phải chu toàn ít nhất là một hành động bác ái đối với người khác.
Việc phổ biến lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa không nhất thiết đòi hỏi nhiều lời nói, nhưng đòi buộc phải có đức tin, lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa và lòng thương xót ngày càng lớn hơn. Trong cuộc sống của mình thánh nữ Faustina đã làm gương cho việc tông đồ này.
Việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa đưa đến chỗ canh tân cuộc sống tu trì trong Giáo Hội, trong tinh thần của sự tin tưởng kitô và lòng thương xót. Dưới khía cạnh này chúng ta gặp thấy trong các trang nhật ký tử tưởng của thánh Faustina về một "dòng tu mới", đó cũng là ước muốn chính Chúa Giêsu đã tỏ cho chị biết. Tư tưởng này đã có một tiến triển chắc chắn: từ một dòng chiêm niệm trở thành một phong trào được làm thành bởi các dòng hoạt động cũng như bởi giáo dân. Cộng đoàn lớn này vượt qua các quốc tịch là một gia đình được cột buộc bởi Thiên Chúa trong mầu nhiệm Lòng Thương Xót của Ngài, và hiệp nhất bởi ước muốn suy niệm đặc tính này của Chúa trong con tim, bằng cách biểu lộ nó ra trong các hành động riêng làm vinh danh Chúa trong mọi linh hồn. Ðó là một cộng đoàn bao gồm nhiều người, trong các cách thức khác nhau tùy theo điều kiện và ơn gọi của mình (linh mục, tu sĩ hay giáo dân sống giữa đời), sống lý tưởng tin mừng của lòng tin tưởng và thương xót, loan báo mầu nhiệm khôn tả Lòng Thương Xót Chúa với chính cuộc sống của mình và bằng lời nói, và khẩn nài Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cho toàn thế giới.
Sứ mệnh của thánh nữ Faustina tìm ra một nguồn gợi hứng trong Thánh Kinh, và phản ánh trong các tài liệu của Giáo Hội, nhất là trong Thông điệp Dives in misercordia Thiên Chúa giàu lòng xót thương của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Thánh nữ Maria Faustina Kowalska
tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa
Thánh nữ Maria Faustina Kowalska, tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa.
Thánh nữ Maria Faustina Kowalska, tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa.
|
Roma (Vat. 25-12-2015) - Ngày mùng 8 tháng 12 năm 2015, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Ðức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Ðền thờ Thánh Phêrô để mở Cửa Thánh khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót. Nói đến Lòng Thương Xót Chúa chúng ta không thể không nhắc đến thánh nữ Maria Faustina Kowalska, tông đồ Lòng Thương Xót Chúa, được các thần học gia coi như một trong các nhà thần bí lớn nhất của Giáo Hội.
Faustina Kowalska sinh ngày 25 tháng 8 năm 1905 tại Glogowiec bên Ba Lan, là thứ ba trong một gia đình nông dân nghèo nhưng đạo đức có 10 người con. Trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội tại nhà thờ giáo xứ Swinice Warckie Faustina được đặt tên thánh là Elena. Ngay từ ngày còn bé Elena đã tỏ ra là một cô gái đạo đức, yêu thích cầu nguyện, siêng năng làm việc, có tinh thần vâng lời và rất nhậy cảm đối với các khổ đau của người khác. Elena đi học hầu như trong vòng ba năm. Năm lên 10 tuổi Elena phải bỏ nhà đi giúp việc cho một gia đình ở Aleksandrów và ở Lodz để tự mưu sinh và giúp đỡ cha mẹ.
Ngay từ khi lên 7, tức hai năm trước khi được rước lễ lần đầu, cô bé đã mạnh mẽ cảm thấy tiếng Chúa gọi. Nhưng sau này khi khi Elena ngỏ ý muốn sống đời tu trì, cha mẹ cô không cho phép. Vì thế Elena tìm cách bóp nghẹt tiếng Chúa gọi nơi mình, nhưng chị bị thúc đẩy bởi thị kiến Chúa Kitô khổ đau và các lời Chúa trách móc chị: "Cha còn phải chịu đựng con cho tới bao giờ? Cho tới khi nào con còn đánh lừa Cha ?" (Nhật ký, tr.44). Chị bắt đầu tìm một dòng tu và gõ cửa nhiều dòng, nhưng không có dòng nào nhận chị. Ngày mùng 1 tháng 8 năm 1925 chị vào dòng các Nữ tu của Trinh Nữ Maria diễm phúc của Lòng Thương Xót trong thủ đô Varsava. Chị viết trong nhật ký: "Tôi cảm thấy minh hạnh phúc vô biên; xem ra tôi đã bước vào đời sống trên thiên đàng. Từ trái tim tôi chỉ trào lên lời cầu duy nhất của lòng biết ơn" (Nhật ký tr. 48).
Tuy nhiên, sau vài tuần chị bị cám dỗ đổi sang một dòng khác, trong đó có nhiều giờ hơn cho việc cầu nguyện. Khi đó Chúa Giêsu cho chị nhìn thấy gương mặt thương tích khổ đau của Ngài và nói với chị: "Con sẽ làm cho Cha đau đớn như thế, nếu con ra khỏi dòng này. Chính ở đây mà Cha đã gọi con chứ không phải ở nơi khác, và Cha đã chuẩn bị cho con nhiều ân sủng" (Nhật ký, tr. 50).
Trong dòng chị Elena nhận tên là nữ tu Maria Faustina. Sau khi hết thời gian nhà tập tại Cracovia, chị đã tuyên khấn lần đầu tiên trong tay Ðức Cha Rospond, Giám Mục Cracovia, và vĩnh thệ năm năm sau đó: thề sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Tiếp đến chị Faustina làm việc trong nhiều nhà của dòng ở Cracovia, Plock và Vilnius, với các nhiệm vụ nấu bếp, làm vườn và canh cổng.
Không có gì bề ngoài cho thấy cuộc sống thần bí phong phú ngoại thường của chị. Faustina chu toàn các nhiệm vụ của mình với lòng nhiệt thành và tuân giữ mọi luật lệ của đời tu trì, sống trong mặc niệm và thinh lặng, nhưng đồng thời chị cũng rất tự nhiên, thanh thản, đầy tràn chân tình và bác ái vô vị lợi đối với tất cả mọi người.
Toàn cuộc sống của chị được tập trung nơí sự kết hiệp ngày càng tràn đầy hơn với Thiên Chúa và cộng tác với Chúa Giêsu trong công trình cứu rỗi các linh hồn. Chị đã thú nhận trong Nhật Ký như sau: "Lậy Chúa Giêsu của con. Chúa biết ngay từ những năm đầu tiên con đã ước ao trở nên một vị thánh lớn, nghĩa là con đã ước mong yêu Chúa với một tình yêu lớn đến độ cho tới nay chưa có linh hồn nào có đối với Chúa" (Nhật ký, tr. 725).
Cuốn Nhật ký vén mở cho thấy tất cả sự sâu thẳm trong đời sống thiêng liêng của chị. Việc chăm chú đọc các bút tích này cho chúng ta hình ảnh độ cao sự kết hiệp của linh hồn chị với Thiên Chúa: Thiên Chúa ban cho chị các ân sủng lớn lao và chị cố gắng và liên tục chiến đấu trên con đường hoàn thiện kitô. Chúa rộng ban cho chị các ơn thánh lớn lao: ơn chiêm niệm, ơn hiểu biết sâu xa mầu nhiệm lòng thương xót Chúa, các thị kiến, các cuộc hiện ra, các dấu thánh kín ẩn, ơn nói tiên tri và đọc hiểu các linh hồn, cũng như ơn của các hôn nhân thần bí. Ý thức rằng mình đã nhận được nhiều ơn như thế chị viết: "Không phải các ân sủng, cũng không phải các mạc khải, cũng không phải các cuộc xuất thần, cũng không phải ơn nào khác được ban cho linh hồn khiến cho nó hoàn thiện, nhưng là sự kết hợp thân tình của linh hồn với Thiên Chúa# Sự thánh thiện và hoàn thiện của tôi là ở trong sự kết hiệp chặt chẽ ý chí của tôi với ý muốn của Thiên Chúa" (Nhật ký, tr. 613).
Kiểu sống khắc khổ và các việc chay tịnh kéo dài mà chị áp đặt cho mình ngay cả trước khi vào dòng, đã khiến cho cơ thể chị suy nhược tới độ ngay hồi còn là tập sinh, chị đã được gửi tới Skolimów, là nơi gần Varsava, để cải tiến các điều kiện sức khoẻ. Sau năm tập đầu tiên chị đã gặp các kinh nghiệm khổ đau thần bí của đem đen đức tin và cả các khổ đau tinh thần và luân lý gắn liền với việc thực hiện sứ mệnh chị đã nhận được từ Chúa Kitô. Thánh nữ Faustina đã dâng hiến cuộc sống cho những người tội lỗi, và vì thế chị cũng chịu nhiều đau khổ cho ơn cứu rỗi của các linh hồn. Ngoài ra, trong những năm cuối đời các khổ đau nội tâm và các khó chịu thể lý cũng gia tăng: bệnh lao biểu lộ xâm lấn hai lá phổi và đường tiêu hóa. Vì thế chị được đưa vào điều trị vài tháng trong nhà thương Pradnik gần Cracovia.
Hoàn toàn bị hủy hoại trên thể lý, nhưng chín mùi tràn đầy trong tinh thần, được kết hiệp một cách thần bí với Thiên Chúa, chị đã qua đời trong hương thơm thánh thiện ngày mùng 5 tháng 10 năm 1938, khi mới 33 tuổi, trong đó có 13 năm sống đời tu trì. Chị được an táng trong phần mộ của dòng ở nghĩa trang Cracovia, nhưng trong tiến trình điều tra phong chân phước hài cốt của chị được đưa về chôn cất trong nhà nguyện của dòng. Trước khi được phong chân phước ngày 18 tháng 4 năm 1993, hài cốt của chị được đặt trong một bàn thờ cạnh của Ðền thánh Lòng Chúa Thương Xót ở Cracovia-Lagiewniki, dưới bức ảnh Chúa Giêsu Từ Bi.
Chúa Giêsu đã tín thác cho chị nữ tu đơn sơ, không học thức nhưng mạnh mẽ và vô cùng tin tưởng nơi Thiên Chúa này, một sứ mệnh lớn lao: đó là Lòng Chúa Thương Xót đối với toàn thế giới. Ngài nói với chị: "Hôm nay Cha gửi con tới với toàn nhân loại với Lòng Thương Xót của Cha. Cha không muốn đánh phạt nhân loại khổ đau, nhưng mong muốn nó được chữa lành và ôm chặt nó vào Trái Tim từ bi của Cha" (Nhật ký tr. 827). "Con là thư ký Lòng Thương Xót của Cha: cha đã chọn con cho nhiệm vụ này trong đời sống này và trong cuộc đời mai sau" (Nhật ký, tr. 838), để "làm cho các linh hồn biết Lòng Thương Xót lớn lao mà Cha có đối với chúng và khích lệ chúng tin tưởng nơi vực thẳm Lòng Thương Xót của Cha" (Nhật ký, tr. 818).
Sứ mệnh của thánh Faustina như thế là nhắc nhớ cho mọi tín hữu một sự thật đức tin đã luôn luôn được biết tới, nhưng có lẽ đã bị lãng quên, liên quan tới tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với con người và nơi việc thông truyền các hình thức mới của việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa, mà việc thực hành phải dẫn đưa tín hữu tới chỗ canh tân cuộc sống đức tin.
Con người thường có con tim cứng cỏi chai lỳ và hầu như vô cảm trước lòng thương xót của Thiên Chúa. Ðây không phải chỉ là diều xảy ra đối với dân Do thái thời Cựu Ước, nhưng cũng là điều có thể xảy ra đối với trái tim của con người thời nay nữa. Vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên qua Ngôn sứ Edêkiel Thiên Chúa đã nói với dân Israel rằng: "Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành ." (Ed 36,26-27). Chúng ta tất cả cần có được con tim mới tràn đầy Thần Khí ấy để có thể cảm nghiệm được Lòng Chúa Thương Xót.
Việc tôn sùng lòng Thương Xót Chúa hệ tại chỗ tin tưởng nơi lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa và nơi các công việc thương xót đối với tha nhân. Ðó là điều chúng ta cần cố gắng sống và thực hành trong Năm Thánh Lòng Thương Xót đã bắt đầu.
Linh Tiến Khải