GỌI DẠ, BẢO VÂNG
Bà Ma-ri-a nói với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38)
Suy niệm: Mặc dù nhân quyền vốn là đề tài được bàn luận hằng ngày và ai vi phạm quyền này thì dễ bị người khác lên án, nhưng cứ coi mình có quyền này, quyền nọ mà bỏ qua việc vâng lời sẽ là một tai hoạ khôn lường. Cuộc sống xã hội chỉ vận hành được khi người ta cùng chấp nhận tuân thủ mệnh lệnh của một người trọng tài chung đứng bên trên tất cả. Vị trọng tài mà mọi người đều phải vâng lời đó là lương tâm, lề luật, lẽ phải, bề trên, và trên hết là chính Thiên Chúa vì mọi quyền bính trên đời này đều xuất phát từ Ngài. Vâng lời không phải là lệ thuộc, càng không phải là sự hạ nhục. Vâng lời không là nô lệ mà là cách thế giải phóng cho thứ tự do chủ nghĩa hàm hồ, và nếu lạm dụng tự do ấy sẽ gây nên nhiều chuyện trớ trêu trong xã hội và Giáo Hội.
Mời Bạn: Chuẩn bị mừng lễ Chúa giáng sinh, mời bạn chiêm ngắm “Đấng vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá”, và cũng chiêm ngắm Đức Ma-ri-a, “Đấng có phúc hơn mọi người nữ” vì đã tin và nói lời “Xin vâng”. Bạn kiểm điểm lại cuộc sống xem mình đã phản ứng, hành động ra sao khi được kêu gọi vâng lời.
Chia sẻ: Vì sao sự vâng lời – đặc biệt sự vâng lời của Đức Ma-ri-a, và của Chúa Giê-su – không làm phẩm giá bị hạ thấp mà trái lại được nâng cao ?
Sống Lời Chúa: Tập mau mắn nghe theo lời khuyên dạy của những người có trách nhiệm hướng dẫn bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương Mẹ Ma-ri-a: mau nghe và chóng làm theo Lời Chúa dạy bảo mỗi ngày khi con nghe đọc Sách Thánh.
THÁNH ĐÔMINICÔ TU VIỆN TRƯỞNG
Tu viện Silos được xây tại miền Castilla cổ từ thế kỷ thứ VI. Vì ở vào miền trung nước Tây Ban Nha, tu viện này lúc đầu rất sầm uất và nổi tiếng về mọi phương diện. Nhưng năm 919, vì bị quân Ả-rập phá hủy và các tu sĩ phải trốn tránh, nên tu viện trở thành một nơi hoang tàn làm sào huyệt cho nhiều bọn cướp đường ẩn náu. Tình trạng ấy kéo dài cho tới năm 1041, tu viện Silos mới lấy lại được cảnh sống thịnh đạt khi xưa nhờ tài ba và nhân đức của thánh Đôminicô.
Thánh nhân ra đời quãng năm 1000, tại Canas, một thị trấn nhỏ bé trong miền Navarre. Lúc còn trẻ, ngài vừa đi học vừa phải chăn chiên giúp đỡ cha mẹ. Gần 30 tuổi, ngài được chịu chức linh mục, sau đó cha còn sống tại gia đình một năm, rồi mới vào rừng tìm nơi cô tịch. Sau 18 tháng sống tịch liêu, cha Đôminicô xin vào tu viện các cha dòng Bênêđitô tại San Millan. Sau ít lâu cha được cử làm bề trên nhà tập và lĩnh trách nhiệm trùng tu nhà dòng Thánh Mẫu tại Canas. Tại đây đã xẩy ra một việc chứng tỏ cha rất thẳng nhặt trong vấn đề giao tiếp với phụ nữ. Người ta kể, một hôm đến thăm tu viện Thánh Mẫu mới trùng tu, cha bắt gặp hai người đàn bà trong tu viện. Cha khó chịu, quay trở về ngay không kể chi lời biện bạch của vị tu viện trưởng.
Hai năm sau, cha Đôminicô được bầu làm bề trên tu viện San Millan, một tu viện quan trọng nhất của dòng Bênêđitô. Cha làm việc rất thẳng nhặt và cương quyết, nhất định không lùi bước trước một việc có ích cho Giáo hội hay cho các linh hồn và tu viện. Một ngày kia, lãnh chúa miền Navarre tên là Garcia de Nazera tổ chức quyên tiền để lo việc chiến tranh với các lãnh chúa khác. Biết vậy, cha nhất định không ủng hộ mà còn nghiệm nhặt phản đối. Lãnh chúa Garcia tức giận, cho quân đến vây tu viện, tuyên án móc mắt và xử giảo cha Đôminicô. Muốn cho dịu công việc, hội đồng tu viện xin cha trốn đi Burgos đầu năm 1040. Từ lâu tiếng nhân đức của cha Đôminicô đã lan vang khắp các miền nước Tây Ban Nha. Vì thế, khi nghe tin cha đến, tiểu vương miền Castilla và Aragong là Ferdinanđô Cả thân hành ra đón và tiếp đãi cha nồng hậu. Tiểu vương muốn rước cha về tư dinh của ông, nhưng cha từ chối, đến sống ẩn dật trong một túp lều nhỏ bé ở vùng ngoại ô. Mấy hôm sau tiểu vương lại thân hành đến thăm cha và xin cha tái lập tu viện Silos đã bỏ hoang từ hơn một thế kỷ này.
Ngày 14 tháng giêng năm 1041, cha Đôminicô bắt đầu công việc. Nhờ ơn Chúa và sự giúp đỡ của tiểu vương, cha đã hoàn thành công việc mau chóng với đủ nhà ở cho 100 thầy. Chính cha vẽ mẫu và quản đốc việc xây cất ngôi nhà nguyện của tu viện. Nhà nguyện này tuy nhỏ bé nhưng có nhiều giá trị về nghệ thuật kiến trúc. Điều đáng tiếc là năm 1750, vì chiến tranh ngôi nhà nguyện đã bị phá hủy đến nỗi không thể trùng tu lại được. Theo tu sĩ Grimmalđô kể lại, thì tu viện trở nên thịnh đạt không phải vì lối kiến trúc tài khéo hay vì nhà cửa đồ sộ đầy đủ tiện nghi, nhưng vì đời sống đạo đức của các thầy, nhất là tiếng vang thánh thiện của cha Đôminicô. Thầy kể tiếp: "Một đêm trong lúc cả nhà hát kinh, một thiên thần đã hiện ra ban cho cha thánh ba vòng hoa rất tươi đẹp và thơm tho: một vòng để tán thưởng cha đã bỏ thế gian tội lỗi, bước cao trên đường trọn lành; vòng khác để ân thưởng công trình trùng tu nhà dòng Thánh Mẫu tại Canas và đức khiết tịnh tuyệt vời của cha; vòng thứ ba để thưởng công cha vì đã làm tròn sứ mạng tái lập tu viện Silos".
Sự thánh thiện của cha không chỉ làm ích cho các tu sĩ, nhưng, như "ngọn đèn sáng Chúa đặt trên cao", nó đã toả sáng soi dẫn cho nhiều người. Quả thế, lòng bác ái đã thúc đẩy cha vượt ra ngoài phạm vi nhà dòng để đem sự rỗi phần hồn và ân huệ phần xác đến cho một số rất đông những người bị quân Hồi hồi bắt làm nô lệ. Không ai kể hết được những việc bác ái cha đã làm: nào là chuộc lại nô lệ, chăm sóc bệnh nhân, nào là dàn hòa những gia đình bất thuận và lo dạy giáo lý cho các trẻ em. Người ta phải nghiêng mình kính phục đức khiêm tốn và hãm mình của cha đến mực nào, khi thấy cha lấy miệng hút mủ ở các vết thương của người bệnh. Cha càng tỏ ra khiêm nhường và sống tận tụy với lớp người xấu số nhất trong xã hội. Phải chăng vì thế mà người thời bấy giờ đã khen tặng ngài là "vị thánh bình dân".
Một điểm đặc biệt khác sáng chiếu trong đời sống cha thánh là lòng sùng mộ các thánh. Cha thường gọi các ngài là "những bông hoa muôn sắc của Chúa Kitô". Dù bận nhiều công việc, mỗi ngày cha cũng dành giờ đọc hạnh các thánh. Vì cha đã cổ động phong trào sùng kính thánh Vinhsơn và hai chị của thánh nhân đã được phúc tử đạo tại Avila. Năm 1063, cha Đôminicô lại cổ võ việc chuyển di hài thánh Isiđôrê về tỉnh Lyon. Mấy năm sau, chính cha đã đến thăm và đàm đạo với thánh Đôminicô thành Cangiađa đang bị giam tù.
Lòng mến Chúa và yêu các linh hồn đã khiến cha làm việc đến quên sức khỏe và chứng bệnh lao xương hằng rỉa rúc thân xác cha. Cha yên lặng chịu bệnh, và gắng sức làm việc cho đến ngày 20 tháng 12 năm 1073 thì hết sức, và qua đời giữa đàn con đông đảo khóc lóc và tiếc thương. Đức Giám mục Bugos chủ sự lễ an táng cha tại nhà nguyện của tu viện. Nơi đây, rất nhiều phép lạ đã xẩy ra vì lời bầu cử của cha thánh. Mỗi phép lạ là một bằng chứng cho lòng sùng mộ của giáo dân đối với cha ngay từ khi cha vừa về trời. Nhiều nhà thờ và nhiều tu viện mang tên thánh nhân, nhất là từ năm 1733, khi tên ngài được chính thức ghi vào sổ các vị thánh của Giáo hội.
Ngày nay, mỗi lần cùng với Giáo hội kính nhớ thánh Đôminicô, chúng ta hãy xin ngài giúp cho chúng ta được giữ trọn giới luật căn bản của Phúc âm: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và tha thiết yêu anh em như chính mình" (Lc 10, 27). Đó chính là điều căn bản thánh nhân bắt chước nơi Chúa Kitô, nơi các thánh và dĩ nhiên ngài cũng muốn để lại cho chúng ta nhìn ngắm và bắt chước vậy.
Không Nhà Không Cửa
Hiện nay trên thế giới có khoảng một trăm triệu người không có nhà để ở. Riêng tại Châu Mỹ La Tinh, có khoảng 20 triệu trẻ em đang ngủ đầu đường xó chợ. Nhìn chung, có một tỷ người trên thế giới không có được một nơi ở tươm tất.
Trên đây là kết quả của một cuộc điều tra dựa trên những con số do các Hội Ðồng Giám Mục và các Giáo Hội Công Giáo địa phương cung cấp. Cuộc điều tra này do Ủy ban công lý và hòa bình của tòa thánh thực hiện và ấn hành thành lập một tập tài liệu vào dịp cuối năm quốc tế những người không nhà không cửa do Liên Hiệp Quốc khởi xướng năm 1988 vừa qua.
Theo tập tài liệu này thì vấn đề nhà ở chắc chắn là một trong những vấn đề trầm trọng nhất của thế giới ngày nay. Tài liệu cho thấy những kẻ không nhà là những người nghèo nhất trong số những người nghèo và tố cáo những người chủ nhà chỉ vì tính toán thủ lợi mà thà bỏ trống những căn nhà hơn là hạ giá để nâng đỡ những kẻ không nhà.
Chúa Giêsu đã chào đời như một con người không nhà không cửa.
Ngài đến là để cho con người được sống và sống một cách sung mãn. Tiếng kêu khóc chào đời của Ngài giữa khung cảnh cùng cực của hang lừa máng cỏ, là tiếng kêu than của hàng triệu triệu trẻ em đang bị tước đoạt quyền sống, đang bị từ chối những điều kiện cơ bản nhất để được sống như con người.
Máng cỏ mà chúng ta đang chuẩn bị ở nhà thờ hay trong gia đình phải là một nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện và tiếng van xin của không biết bao nhiêu người không nhà, không cửa xung quanh chúng tạ Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta đang nhìn thấy tận, mắt thế nào là cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
Chúng ta chuẩn bị một trú ngụ cho Hài Nhi Giêsu, chúng ta có nghĩ đến những người cùng khổ xung quanh chúng ta không?
Chúng ta có biết rằng khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước đau khổ của người anh em chúng ta là chính lúc chúng ta khước từ Chúa Giêsu không?
Chúng ta có biết rằng ngày Giáng Sinh của Chúa Giêsu cũng là ngày Giáng Sinh của những con người cùng khổ nhất không?
Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ không bao giờ đến trong máng cỏ hào nhoáng của chúng ta, nếu chúng ta xua đuổi những người khốn khổ xung quanh chúng ta.