Thứ Sáu, 8 tháng 1, 2016

5 Phút cho Lời Chúa 8/1/2016

Filled under:


TIN, TÍN THÁC VÀO CHÚA
Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh. (Lc 5,13)
Suy niệm: Một bàn tay đụng chạm, một lời được thốt ra: “Tôi muốn, anh hãy sạch đi,” và lạ lùng thay, hiệu quả xảy ra ngay tức thì! Thế nhưng, không phải bất cứ bàn tay và môi miệng nào cũng làm được điều kỳ diệu ấy, mà phải là của Đức Giê-su. Điều kỳ diệu đó nay được tiếp tục trong các bí tích, để khi các thừa tác viên được Đức Giê-su ủy thác cử hành các bí tích ấy bằng lời nói và cử chỉ, thì hiệu quả của ơn cứu độ, Lòng Thương Xót của Chúa cũng phát sinh ngay lập tức  nơi người lãnh nhận. Tuy nhiên, để được hiệu quả ấy, một điều không thể thiếu là đức tin của người lãnh nhận. Tin là đón nhận Đức Ki-tô đến gặp gỡ tôi, Người là Đấng thực hiện nơi tôi tất cả những gì mà thế gian không làm được (x. Ga 6,67-68).  
Mời Bạn: Mỗi lần lãnh nhận bí tích, bạn có tin nhận Chúa Giê-su thật sự hiện diện, làm cho đời bạn thật dồi dào ơn Chúa, Lòng Thương Xót của Ngài? Nếu tin, sao bạn còn thờ ơ, lãnh đạm với Lời Chúa và ân sủng Chúa ban. Một trong những đường hướng Đức Phan-xi-cô vạch ra để dân Chúa sống Năm Thánh Lòng Thương Xót đạt hiệu quả tốt nhất là siêng năng cử hành và lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa. Bạn đã sẵn sàng thực hiện lời nhắn nhủ ấy chưa?
Sống Lời Chúa: Luôn tâm nguyện hoặc khẩu nguyện câu: Lạy Chúa Giê-su, con tín thác vào Chúa.
Cầu nguyện: “Con tin Chúa ơi! Chúa chính là niềm vui con; tình Ngài đỡ nâng cho con qua muôn ngàn gian khó. Con tin Chúa ơi! Chúa chính là niềm an ủi con. Ngài hằng chở che cho con thoát những ngày tối tăm.”
THÁNH SÊVÊRIANÔ TÔNG ĐỒ MIỀN NORÍT
(+ 482)
Người ta không biết rõ sinh quán và lai lịch buổi thiếu niên của thánh nhân.
Theo sử gia Eugypiô thì hình như vì khiêm tốn, thánh nhân không bao giờ cho ai biết về sinh quán và đời niên thiếu của mình.
Theo sử gia Tôma Sômmêla người Đức thì thánh nhân xuất thân tự một gia đình quý phái ở Phi Châu. Ngài đã được huấn luyện để lĩnh chức Giám mục ở quê hương. Nhưng năm 437 người Văngđan (Vandales) bách hại công giáo, nên ngài phải trốn sang Tiểu Á sống đời tu hành theo luật thánh Basiliô và hoạt động tông đồ tại đấy.
Năm 454, người ta thấy bóng một thanh niên thường lui tới Astura, một thị trấn nhỏ bé xinh xinh nằm ven bờ sông Đanubia. Người thanh niên với dáng điệu đứng đắn, cặp mắt đăm chiêu kia đến đây làm gì? Phải chăng chàng đến đây để giải quyết vấn đề nhân sinh, cải thiện đời sống cho đoàn người bán khai Astura ?
Một ngày cuối năm, cũng vẫn dáng điệu đứng đắn và vẻ mặt tư lự, Sêvêrianô đến trọ nhà một ông già giữ nhà thờ thị trấn Astura. Từ đó trong bầu không khí trầm lặng tôn nghiêm của thánh đường, ngày ngày Sêvêrianô chuyên tâm cầu nguyện, suy niệm và cố gắng thi hành nhân đức khiêm nhường, khó nghèo và trong sạch.
Sau một thời gian, Sêvêrianô bỗng bỏ nhà ra đi, chạy rảo qua các phố xá tuyên truyền giáo thuyết công giáo.
Sêvêrianô tha thiết kêu gọi các tu sĩ, giáo dân mau mau chuyển hướng, thay đổi đời sống, ăn năn đền tội. Ngài tiên báo nếu người công giáo không sớm thay đổi đời sống luân lý, Thiên Chúa sẽ để quân đội bán khai đến triệt hạ xâm chiếm và tàn phá Astura.
Trước lời kêu gọi tha thiết và cảnh cáo đó, dân thành Astura vẫn bưng tai. Lời cảnh cáo của tân tiên tri Giona không gây được một âm vang nào nơi những tâm hồn bạc nhược đã quá say mê khoái lạc và vinh hoa vật chất của kinh thành. Khi hình phạt Chúa sắp đổ trên dân thành, Sêvêrianô liền lánh sang Cômagêna một thị trấn gần Astura. Rồi cũng một luận điệu cảnh cáo, Sêvêrianô kêu gọi dân Cômagêna mau mau cải tà quy chính trở lại làm con hiếu thảo của Thiên Chúa nếu không cũng sẽ bị một số phận như Astura.
Trong thời gian Sêvêrianô lưu trú ở đấy, có một người Astura thoát nạn chạy đến đó thuật lại cho mọi người nghe tai nạn ở Astura. Rồi ông kết luận: "Hình phạt Thiên Chúa sẽ không đè nặng dân thành Cômagêna, nếu người ta biết tuân theo huấn thị của đấng mà Thiên Chúa sai đến". Đang khi nói với dân chúng, người Astura ấy trông thấy thánh nhân và nói: "Đây là đấng cứu chúng ta, chính ngài đã cứu tôi thoát nạn".
Bấy giờ quân đội bán khai đã bao vây và sắp khởi cuộc tấn công, tàn phá Cômagêna. Người ta hoảng sợ chạy đến với thánh nhân xin ngài thương. Thánh nhân ra lệnh cho toàn dân thành Cômagêna phải ăn chay, cầu nguyện và thống hối. Sau tuần tam nhật, toàn dân Cômagêna ăn chay cầu nguyện vững lòng trông cậy Chúa sẽ cứu thoát nạn, bỗng nhiên có một cơn động đất kinh khủng phá tung hàng rào bao vây của quân thù, chôn vùi rất nhiều sinh mạng. Những quân địch còn lại hoảng hốt chạy chà đạp lên nhau, chết gần hết. Nhờ đó dân thành Cômagêna thoát nạn.
Để thánh hoá hoàn cảnh xã hội, hướng dẫn dân chúng thi hành đức nhân ái, để làm sống động đức tin người công giáo, thánh nhân thiết lập một tu viện gần Favianô, khi tu viện đã đông và đời sống tu đức của nhà dòng đã vững chắc, thánh nhân đặt thêm Êugrypiô làm bề trên thay ngài.
Thánh nhân lại đi lập một nhà dòng ở Boiêtrona. Ngoài ra, ngài còn thiết lập nhiều tu viện khác vì coi đó là những thành trì bảo vệ đức tin và là những trung tâm hiệu lực truyền bá đạo Chúa.
Dân chúng, giáo dân và tu sĩ tin tưởng và kính ngài như một vị cứu tinh, một vị ân nhân độc nhất, một nhà lãnh đạo tinh thần sáng suốt.
Sau ba mươi năm chung sống với các tu sĩ, ngài đã gây ảnh hưởng rất lớn, và các tu sĩ đều thi nhau sống theo gương mẫu của ngài.
Đem đối chiếu những hoạt động tông đồ và đời sống nội tâm của thánh nhân, thoạt tiên chúng ta thấy mâu thuẫn.
Nhưng nếu phân tích chúng ta thấy hoạt động và đời sống nội tâm của thánh nhân điều hoà theo một điệu nhịp và đối tượng là: bác ái và vinh danh Chúa. Theo tiếng gọi thiêng liêng đó, thánh nhân thi hành những hoạt động công khai, thiết lập các tu viện, truyền bá giáo thuyết và kêu gọi dân chúng thi hành đức nhân ái, ăn năn đền tội. Đồng thời trong đời sống cá nhân, thánh nhân cũng chú trọng thi hành đức bác ái, khiêm nhường, khó khăn và trong sạch.
Ngoài lúc hoạt động, thánh nhân thường cầu nguyện lâu giờ và suy niệm đời sống Chúa Giêsu. Nhờ đời sống nội tâm và tinh thần cầu nguyện sâu xa, thánh nhân đã xin Chúa ban cho nhiều người được các đặc ân hồn xác. Mục đích những giờ cầu xin và những công việc ngài làm có ý hướng dẫn tâm hồn người ta trở về thờ phượng Chúa. Vì đức khiêm nhường, thánh nhân không bao giờ cho ai biết những đặc ân mà Chúa ban cho ngài. Trong các phép lạ ngài làm nhân danh Thiên Chúa, bao giờ ngài cũng cấm không ai được nói ra với người khác. Nhưng có một cuộc đàm thoại lạ thường giữa thánh nhân và kẻ chết thì ai ai cũng biết mặc dầu thánh nhân cấm không ai được tiết lộ.
Việc tu sĩ Silvinô qua đời gieo vào lòng anh em một niềm thương tiếc vô biên. Thánh Sêvêrianô động lòng trắc ẩn, ngài đến trước quan tài người quá cố và nói: "Hỡi thầy Silvinô, thầy có muốn hồi sinh sống chung với anh em không?" Bấy giờ tử thi thầy Silvinô ngồi dậy trả lời: "Con đang ở nơi vĩnh cửu cùng với các thánh, xin Cha đừng để con mất hạnh phúc đang đợi con". Nói xong tử thi lại nằm xuống yên nghỉ giấc ngàn thu.
Thánh nhân còn cứu dân chúng thành Favianô thoát nạn đói khát và những cảnh bóc lột kinh khủng của quân đội người bán khai.
Băng tuyết bao phủ lòng sông làm bế tắc đường giao thông; các chuyến tầu chở thực phẩm đến Favianô đều bị ngưng đọng lâu ngày. Nạn đói bắt đầu hoành hành khắp tỉnh. Dân chúng sợ hãi chạy đến xin thánh nhân cứu giúp. Như thường lệ, thánh Sêvêrianô ra lệnh ăn chay đền tội. Sau vài ngày cầu nguyện đền tội, băng tuyết tan ra, tầu lại chở thực phẩm từ miền Rêtia đến Favianô như thường.
Nhưng nạn đói vừa qua thì dân Favianô lại bị quân đội bán khai đến cướp phá. Dân chúng hoảng sợ và Mamertinô, tổng tư lệnh quân đội Rôma, biết chắc không thể mang lực lượng bé nhỏ đối phó với binh lực hùng hậu của quân cướp.
Thánh nhân khuyên dân chúng và vị chỉ huy trưởng quân đội hãy hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Khi quân cướp xông đến, tin tưởng vào sự giúp đỡ của Chúa và lời cầu nguyện của của thánh nhân, Mamertinô mang quân ra ứng chiến anh dũng, quân thù bị thiệt hại nặng nề, nhiều người bị giết và bị bắt, người ta mang những tù nhân giải nạp cho thánh nhân. Nhưng với tinh thần bác ái, thánh nhân cho họ tự do và nói với dân thành Favianô: "Chúng ta sẽ còn được bình an nếu chúng ta trung thành phụng sự Chúa ".
Năm 482 ngài lâm bệnh nặng, trong thời gian dọn mình về chầu Chúa. Thánh nhân khuyên các tu sĩ và những người đến thăm ngài phải trung thành phụng sự Chúa hết sức, tu luyện nhân đức để thánh hoá bản thân và xã hội.
Một sáng sớm mai, lúc không gian còn lắng chìm trong im lặng, thánh nhân cho gọi tất cả các tu sĩ đến. Ngài lần lượt ôm hôn từ biệt mỗi người. Đoạn ngài rước Mình Thánh Chúa, bảo các tu sĩ đọc ca vịnh "Hãy ca ngợi sự thánh thiện của Thiên Chúa " - đến câu cuối thì ngài trút hơi thở.
Ngài qua đời ngày 08 tháng Giêng năm 482.
Sáu năm sau, tuân theo lời ngài nói, các tu sĩ chuyển xác ngài từ Favianô sang Ý. Khi mở quan tài, người ta thấy xác thánh nhân còn nguyên vẹn như lúc mới chết.
Bấy giờ có một bà quý phái tên Batba dâng cho nhà dòng biệt trang Lucullanum ở biên giới tỉnh Napôli và Putêôli để đặt xác thánh nhân và thiết lập tu viện.
Đến thế kỷ X, người ta lại chuyển quan tài thánh nhân vào nhà thờ dòng Biển đức và đặt tên là nhà thờ Thánh Sêvêrianô.