Phút cảm nhận Tin Mừng ngày 17/9/2019
Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá… Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa.” (Lc 7,12-13).
Hãy tưởng tượng: Đức Giêsu cùng các môn đệ đang tiến đến gần cổng thành Naim, còn đám tang người con trai duy nhất của một bà goá, có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó thì đang đi ra khỏi cổng thành. Đức Giêsu đã xúc động và cảm thương nỗi đau buồn lớn lao này.
Là con Thiên Chúa, Người thấy rõ những khốn cực của loài người. Là phận người nên càng nhạy bén trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của loài người.
Đức Giêsu đến gần về phía quan tài, chạm tay vào và nói: Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy! Người chết liền chỗi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu dắt đến cho bà mẹ anh ta!
Đức Giêsu đã cho anh thanh niên này sống lại nhưng thật sự chỉ là hồi sinh chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng chết, trở về với bụi đất.
Thiên Chúa, Ngài chỉ muốn đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin ban cho chúng con niềm tin, lòng can đảm để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách vui tươi nhẹ nhàng, để sau này chúng con được tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài trên Nước Thiên đàng. Amen.
Thánh Robert Bellarmine
Tiến Sĩ Hội Thánh
(1542-1621)
Roberto Francesco Romolo sinh ngày 04 tháng 10 năm 1542 tại Montepulciano, Tuscany, nước Ý là con thứ ba trong gia đình 10 người con của ông Vincenzo Bellarmine và bà Cizia Cervini, cháu gái của Đức Giáo Hoàng Marcellus II. Lúc còn niên thiếu, cậu Robert tỏ ra có nhiều điểm đặc biệt về trí thông minh và lòng đạo đức. Khi lên 18 tuổi, cậu xin gia nhập dòng Tên ở Rome đến năm 1569 cậu được gửi đi du học ở Louvain. Sau khi mãn học ở đó, Robert được lãnh chức Linh Mục.
Khi Robert Bellarmine thụ phong linh mục năm 1570. Vào thời đó, vấn đề học hỏi lịch sử Giáo Hội và các Giáo Phụ bị lãng quên một cách đáng buồn. Ngay từ thời thanh niên ở Tuscany, ngài đã có triển vọng là một học giả nổi tiếng, vì ngài dành nhiều thời giờ nghiên cứu về những đề tài nói trên, cũng như Kinh Thánh, để hệ thống hóa học thuyết Công Giáo nhằm đương đầu với các cuộc tấn công của Tin Lành. Ngài là linh mục dòng Tên đầu tiên làm giáo sư ở Louvain.
Công trình nổi tiếng nhất của ngài là bộ sách Tranh Luận về Những Mâu Thuẫn trong đức tin Kitô Giáo. Ðặc biệt nhất là các đoạn nói về thế quyền của đức giáo hoàng và vai trò của giáo dân. Ngài chọc tức cả nước Anh và nước Pháp khi chủ trương rằng thần quyền của các vua chúa không thể tồn tại. Ngài khai thác học thuyết về thẩm quyền gián tiếp của Ðức Giáo Hoàng trong các giao tế nhân sự; mặc dù ngài bảo vệ Ðức Giáo Hoàng chống với triết gia Barclay, ngài cũng bị Ðức Giáo Hoàng Sixtus V tức giận.
Bellarmine được Ðức Giáo Hoàng Clement VIII tấn phong Hồng Y là vì “ngài không được những gì xứng với tài học.” Trong khi sống ở Vatican, Bellarmine không thua gì các nhà tu khổ hạnh. Ngài giới hạn các chi tiêu cá nhân tới mức tối đa chỉ còn những gì thật cần thiết, ngài ăn các thực phẩm dành cho người nghèo. Ðược biết là ngài đã chuộc một người lính bị sa thải khỏi quân đội, và dùng các màn cửa trong dinh cơ của ngài để may quần áo cho người nghèo, vì theo ngài nói, “Các vách tường không thể bị cảm lạnh được.”
Một trong những công việc của ngài là trở nên thần học gia của Ðức Giáo Hoàng Clement VIII, và chuẩn bị hai bộ giáo lý có ảnh hưởng rất lớn trong Giáo Hội.
Sự khó khăn sau cùng lớn nhất trong đời Bellarmine là năm 1616 khi ngài phải khiển trách người bạn của ngài là Galileo, người mà ngài rất khâm phục. Đức Hồng Y Bellarmine đại diện cho Tòa Thánh chuyển trao văn thư cảnh cáo, mà trong đó quyết định rằng lý thuyết về thái dương hệ của Galileo thì trái với Phúc Âm. Sự khiển trách chung quy là một lời cảnh cáo đừng đề cao các lý thuyết chưa được hoàn toàn chứng minh — khác với giả thuyết. Ðây là một thí dụ điển hình cho thấy các thánh vẫn có thể sai lầm.
Ngài an nghỉ trong Chúa ngày 17 tháng 9 năm 1621 sau một cơn sốt nặng trong khi tỉnh tâm hàng năm ở nhà dòng thánh André. Ngài được mai táng tại Rome và thánh tích được chuyển dời về nhà thờ thánh Ignatius ở Rome ngày 21 tháng 6 năm 1923.
Đức Giáo Hoàng Urbano VIII đã công nhận ngài là Đấng Đáng Kính năm 1627 khi bắt đầu tiến trình án phong thánh cho ngài nhưng bị đình hoãn cho đến năm 1930 vì lý do chính trị, phát xuất từ các văn bản của ngài. Đến gần 300 năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XI mới tôn phong Chân Phước cho Đức HY Robert Bellarmine ngày 13 tháng 5 năm 1923 và bảy năm sau ngài lại nâng Chân Phước Robert Bellarmine lên bậc hiển thánh ngày 29 tháng 6 năm 1930. Một năm sau, Đức Thánh Cha Pius XI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 17 tháng 9 năm 1931.
Lời Bàn
Sự canh tân Giáo Hội mà Công Ðồng Vatican II theo đuổi thì thật khó cho nhiều người Công Giáo. Trong sự thay đổi, nhiều người cảm thấy thiếu xót một hướng dẫn vững chắc từ giới có thẩm quyền. Họ mong muốn có những lý luận chính truyền vững như bàn thạch, và một mệnh lệnh cứng cỏi có xác định thẩm quyền hẳn hoi.
Trong văn kiện Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Công Ðồng Vatican II đảm bảo chúng ta rằng, “Có nhiều thực thể không thay đổi và có nền tảng thực sự từ Ðức Kitô, Ðấng hôm qua cũng như hôm nay, và mãi mãi.”
Robert Bellarmine đã hy sinh cuộc đời để nghiên cứu Kinh Thánh và học thuyết Công Giáo. Các văn bản của ngài giúp chúng ta hiểu rằng, không chỉ có nội dung đức tin là quan trọng, mà còn chính con người sống động của Ðức Giêsu Kitô–như được biểu lộ qua sự sống, sự chết và sự sống lại của Ngài–đó là nguồn gốc của ơn cứu độ.
Nguồn gốc thực sự của đức tin không chỉ là mớ lý thuyết nhưng đúng hơn là con người của Ðức Kitô hiện đang sống động trong Giáo Hội ngày nay. Khi từ giã các tông đồ, Chúa Giêsu đảm bảo với họ về sự hiện diện sống động của Ngài: “Khi Thần Khí của chân lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt các con đến chân lý toàn vẹn” (x. Gioan 16:30).
Lời Trích
“Chia sẻ mối quan tâm với tất cả giáo hội, các giám mục hành xử quyền của mình, mà họ đã lãnh nhận qua lễ tấn phong, trong sự hiệp thông với Ðức Giáo Hoàng Tối Cao và dưới quyền của ngài. Tất cả kết hợp thành một tập thể hay thân thể để giảng dạy về Giáo Hội hoàn vũ của Thiên Chúa và để điều hành giáo hội như các mục tử” (Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của Các Giám Mục, 3).