Phút suy niệm ngày 7/1/2019
"Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng"(Mt 2, 1-12).
Ngôi sao đích thực dẫn đường cho không riêng cho các đạo sĩ mà còn cho cả loài người và từng người trong suốt dọc dài cuộc sống.. Ngôi sao ấy chính là Đức Giêsu con Thiên Chúa hằng sống.
Chúng con sống giữa trần gian với biết bao cám dỗ cùng những gian tham, đã làm cho lòng chúng con ra u tối. Nhưng thương thay ánh sao Giêsu đã chiếu tỏ đường đi, soi rõ những bất công cùng giận hờn. Mắt chúng con có lúc còn mù mờ do thiếu suy xét dẫn đến bước những bước thấp bước cao, không đến được bến bờ hạnh phúc.
Lạy Chúa. Xin cho chúng con biết trông nhờ vào ánh sao dẫn đường là chính Con Chúa, để chúng con vững lòng bước đến với Chúa, để chúng con không còn té ngã thêm một lần nào nữa. Amen.
LỄ HIỂN LINH
Giáo Hội Đông phương mừng lễ Hiển Linh (Epiphaneia) vào thế kỷ thứ III. Trong ngày lễ này, Giáo Hội Đông phương kính nhớ hai sự kiện qua đó Chúa Cứu Thế tỏ lộ Thiên Tính của mình:
- Lần thứ nhất: Thanh tẩy ở sông Giođanô. Vào lúc ấy Chúa Cha phán tỏ tường: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người". (Mt 3, 17)
- Lần thứ hai: Tiệc cưới Cana, nơi đó Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên: "Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bầy tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người" (Ga 2, 11).
Khi đón nhận lễ Hiển Linh, Giáo Hội Tây phương lại thêm vào sự kiện thứ ba: Cuộc thờ lạy của các đạo sĩ. Giáo hội Tây phương cho rằng, các vị đạo sĩ này đã từ phương Đông xa xôi đến Bêlem thờ lạy Hài Nhi. Họ là những người đầu tiên công nhận Thiên Tính của Chúa Giêsu (Mt 2).
Thánh Bênađô giải thích:
- Trong lần thứ nhất, Chúa tỏ mình ra như con người thật cho các đạo sĩ, khi Người nằm trong vòng tay của Mẹ.
- Lần thứ nhì, Người tự tỏ mình ra là Con Thiên Chúa, khi Cha trên trời tuyên phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người" (Mt 3, 17).
- Trong lần thứ ba, Người tự tỏ mình là Thiên Chúa khi hoá nước thành rượu.
Thánh Âutinh chọn đề tài về các đạo sĩ để nói trong cả sáu bài giảng của ngài. Với thánh Giáo Hoàng Lêô thì chính việc thờ lạy của các đạo sĩ mới là chủ đề chiùnh.
Vào thế kỷ thứ VI, người ta coi đó là các vị vua và xác định cả quà tặng các vị đến dâng cho Chúa.
Vào thế kỷ thứ VIII, thánh Bêđa đáng kính tả họ như sau: "Người đầu tiên tên là Melchior. Đó là một cụ già với mái tóc trắng và chòm râu bạc; ông dâng cho Chúa vàng để chân nhận vương tước của Chúa. Người thứ hai tên là Gaspar, còn trẻ, mầu da đỏ; ông dâng lên chúa nhũ hương để chân nhận Thiên Tính của Chúa. Vị thứ ba tên là Balthasar, mầu da ngăm đen, có chòm râu rậm; ông dâng lên Chúa mộc dược, vì biết rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa cũng là Con Loài Người và Ngài phải chết vì cứu độ chúng ta ."
THÁNH MÊLANIÔ
Plat, một thôn xóm nhỏ bé nằm soi bóng bên bờ sông Vilaine, là nơi Mêlaniô đã chào đời. Vốn giòng quý tộc, lại thêm lòng đạo hạnh, hai ông bà thân sinh ra Mêlaniô rất lo lắng đến việc giáo dục con cái. Khi cậu ấm vừa đến tuổi khôn, ông bà liền tìm ngay những linh mục đạo đức thông thái để giao cậu nhỏ cho các ngài dậy dỗ và giáo dục.
Mêlaniô vì đấy đã sớm hấp thụ được một lòng đạo đức chắc chắn. Từ nhỏ cậu đã say mê sống những giây phút trầm tĩnh để hồn chìm trong suy ngắm và cầu nguyện. Có một lần, khi đêm đã khuya mà Mêlaniô vẫn thức cầu nguyện trong phòng, bỗng Chúa cho ngài được thấy thị kiến. Ngài thấy một đoàn người lũ lượt gồm đủ già trẻ trai gái, tiến đến và đồng thanh xin nhận ngài làm cha. Mêlaniô không giữ nổi vẻ bỡ ngỡ kinh hoàng và không hiểu tại sao. Nhưng đó chính là điềm báo tương lai cho ngài. Thực vậy, ít năm sau, Đức Giám mục Aman cai quản giáo phận Rennes thấy mình già yếu, không chắc sống được bao lâu nên đã cho triệu vời Mêlaniô đến để đặt làm người kế vị. Bên giường hấp hối, vị Giám mục cao niên đó còn đủ sáng suốt để khích lệ và nhắn nhủ kẻ ngài đã chọn: "Con rất thân ái, Chúa Thánh Linh đã chọn con để làm thánh điện cho Ngài. Con hãy cố gắng chăn dắt đoàn chiên mà Chúa sẽ ký thác cho con sau khi cha từ trần". Rồi ngài công khai tuyên bố tấn phong Mêlaniô làm Giám mục. Mấy giờ sau, Ngài êm ái từ trần để lại cho Mêlaniô gánh nặng coi giữ đoàn chiên Chúa.
Giáo dân buồn tiếc vì phải ly biệt người cha già khả kính. Nhưng họ cũng được vui mừng phần nào vì có một đấng kế nghiệp trẻ trung không kém bề đức độ. Mêlaniô vì lòng khiêm tốn muốn khước từ chức vị Giám mục, nhưng cuối cùng vì giáo sĩ và toàn dân quá ái mộ, ngài đành phải chấp nhận.
Trước nghĩa vụ nặng nề, Mêlaniô rất đỗi lo sợ, vì thế ngài càng lo sống đời đạo đức nội tâm và tận lực chu toàn phận sự. Để đối lại những nếp sống xa hoa, thích tham gia chính trị của các Giám mục đương thời, Đức Giám mục Mêlaniô thích sống cuộc đời thấp hèn hy sinh, chỉ ngày đêm bầu bạn với Chúa và trầm lặng để nghe lời Ngài dậy bảo.
Như thưởng thức cánh hoa thơm tung hương trước gió. Ai nấy đều ngưỡng mộ và ca ngợi lòng đạo đức và sự khôn ngoan của ngài. Chứng cớ là chính vua Clôvis, đã triệu ngài về kinh đô để làm cố vấn, cho xây cất hoặc trùng tu nhiều thánh đường.
Để làm vinh hiển tôi tớ của Người hơn, Chúa cũng ban cho Đức Giám mục nhân đức đặc ân làm nhiều phép lạ, trừ ma quỷ, chữa bệnh tật và nhất là đặc ân cải tử hoàn sinh.
Lần kia ngài đã trừ quỷ cho con trai một ông lão già người Vênết. Ông chỉ còn một cậu trai để an ủi và nương tựa trong tuổi già. Nhưng thật là vui ít sầu nhiều; lòng ông đã bao phen xé rách vì thấy con một yêu quí của mình đau đớn bị quỷ dữ hành hạ. Một ngày kia, thừa lúc ông lão đi vắng, quỷ hoành hành dữ quá đến nỗi làm cho con ông tắt thở. Trở về ông lão thấy xác con đã cứng đờ và lạnh ngắt. Nước mắt dàn dụa vì đau đớn, nhưng lòng đầy tin tưởng, ông nghẹn ngào nói với mấy người bạn: "Nhờ mấy ông đem xác cháu đến với Đức Giám mục Mêlaniô, người giảng giáo lý chân thật của Chúa hằng sống. Tôi chắc ngài có phép làm cho con trai tôi sống lại ". Người ta đã chiều ý ông, chính ông lão già tội nghiệp cũng theo đến kể lể nỗi thống khổ của mình và khẩn khoản xin Đức Giám mục thương giúp.
Trước đám đông dân chúng đã tụ tập vì tò mò muốn biết sự lạ, Đức Giám mục Mêlaniô thừa dịp giảng một bài kêu gọi lòng tin của họ. Ngài nói: "Cùng toàn thể anh em yêu quý, anh em hy vọng xem phép lạ mà không có lòng tin tưởng Đấng ban phép lạ đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và là Chúa của mọi người, thì có ích lợi gì?" Sở dĩ ngài nói vậy vì đa số thính giả đều chưa thụ giáo. Nghe vậy họ đồng thanh hô lớn: "Thưa người của Chúa, anh em chúng tôi cam đoan nếu ngài làm cho con trẻ này sống lại, chúng tôi sẽ xin nhập giáo hết". Họ nói xong, Đức Giám mục bắt đầu cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu Kitô; Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa đã cho người anh của chúng con là thánh Máctinô lần kia làm cho ba người chết sống lại. Giờ đây con nguyện xin Chúa là Cha rất nhân từ khấng nghe lời tôi tớ bất xứng của Chúa để mọi người đứng chung quanh đây nhận biết Chúa là Đấng toàn năng có phép làm cho con trẻ này sống lại nếu Chúa muốn, như thế họ không còn khinh dể Chúa". Nguyện đoạn, ngài lại giơ tay làm dấu thánh giá trên xác con trẻ, tức thì cậu sống lại. Toàn dân trố mắt kinh ngạc vì sự lạ và oai quyền của Đức Giám mục. Một lần nữa họ đồng thanh hô lớn: "Thôi đủ rồi, bây giờ tất cả chúng tôi tin vị Thiên Chúa mà ngài rao giảng". Tâm hồn ngài tràn ngập vui sướng và chỉ còn biết chờ ngày để đón nhận đoàn chiên mới.
Cũng trong vùng đó, dân chúng còn được chứng kiến một phép lạ thời danh khác mà mỗi lần nhắc đến là mỗi lần khơi thêm lòng biết ơn và kính sợ của mỗi người đối với Đức Giám mục. Kẻ chịu ơn lần này là cha con ông hoàng xứ Vannes. Ông này, ngày kia dẫn quân đến miền Cambliciacum. Rồi không hiểu vì lý do nào ông nổi cơn lôi đình, hạ lệnh chặt tay và khoét mắt một số dân lành miền đó. Nhưng trời nào dung kẻ sát nhân. Ngay đêm hôm sau toàn thân ông bỗng bị đau đớn khốn nạn. Ông đã cho vời các lang y danh tiếng đến để điều trị, nhưng tất cả đều bó tay trước chứng bệnh kỳ dị đó. Ba ngày sau, người con gái yêu quý nhất đời của ông là nàng Átpasi cũng lại bị trúng phong và quỷ ám. Tai họa đã giáng xuống nhà lãnh chúa độc dữ đó. Trong lúc khốn cùng, có người nói với ông về Đức Giám mục Mêlaniô người có quyền làm phép lạ. Êusêbiô liền phái người đến với Đức Giám mục xin ngài vì lòng bác ái đến cứu chữa gia đình ông. Đức Giám mục nhận lời ngay, ngài ra đi với mấy tu sĩ khác. Tới nơi ngài đi thẳng đến giường bệnh của con người độc ác kia. Êusêbiô lúc này đã tỏ lòng thống hối về những điều quái ác mình đã làm. Ông thú nhận mọi tội lỗi và cũng nhìn nhận là Chúa đã giáng họa cho gia đình ông. Rồi ông tha thiết xin Đức Giám mục cầu Chúa cho mình. Trước tâm tình thống hối đó, vị chúa chiên chỉ còn biết tìm lời an ủi: "Ông cứ an tâm, bệnh này không làm cho ông chết đâu, nhưng nhờ đó mà ông nhận biết Thiên Chúa là Chúa thật đã tạo dựng nên ông ". Nhưng ngài cũng không quên ra việc đền tội cho hối nhân. Sau đó ngài xức dầu thánh cho bệnh nhân ba lần. Vừa xức dầu vừa kêu cầu danh Chúa. Dầu xức đến đâu bệnh nhân liền khỏi đến đó; sau ba lần thì bệnh nhân được khỏi hẳn. Sau đó ngài đến giường người con gái ông đang bị quỷ dằn vật. Vừa thấy vị thủ lĩnh của các giáo hữu, quỷ dữ liền kêu: "Thưa Đức Giám mục Mêlaniô, đấng thánh của Chúa, tại sao ngài truy nã tôi? Mới đây, ngài đã đuổi tôi khỏi thân xác một thiếu nữ, bây giờ ngài lại muốn trục xuất tôi nữa saỏ" Với giọng oai nghiêm, Đức Giám mục truyền lệnh cho tên quỷ: "Hỡi vật khốn nạn, hãy ra khỏi thiếu nữ này và cút vào nơi tối tăm". Lập tức người con gái được giải thoát khỏi quỷ dữ.
Nàng vui mừng sung sướng và không ngớt lời ca tụng Thiên Chúa. Để đền đáp ơn trời bể đó, nàng đã xin với cha ký nhường cho Đức Giám mục địa hạt Cambliciacum để tuỳ ngài sử dụng.
Suốt đời Đức Giám mục chỉ biết lăn lộn hy sinh để giảng giáo và gia ơn cứu độ cho mọi người, cho đến khi tuổi già sức yếu, ngài mới lui về Plat hưởng làn khí thanh mát và sốt sắng trong một tu viện do ngài sáng lập để dọn mình chết.
Như cho nhiều thánh nhân khác, Chúa cũng đã tỏ cho ngài biết trước giờ mệnh chung, nên một ngày kia ngài cho gọi các thầy dòng lại bên giường để nhắn nhủ mấy lời sau hết. Ban phép lành cho các thầy đoạn, ngài từ từ nhắm mắt và lịm đi êm ái như một ngọn đèn hết dầu.
Tang lễ được cử hành rất trọng thể. Ít lâu sau hài cốt ngài được rước về an táng tại nhà thờ chính toà của giáo phận ngài tại Ren. Thánh cốt được đặt trên một con thuyền to lớn giữa hai hàng giáo sĩ nghiêm trang ca hát thánh vịnh. Tiếng sóng đều đều vỗ vào mạn thuyền hoà nhịp với tiếng hát và lời kinh gây nên một bầu không khí trang nghiêm cảm kích khác thường. Con thuyền từ từ ngược dòng giữa hai hàng người đông đảo đi trên bờ để kính đưa di hài đấng thánh về nơi an nghỉ.
Tại Ren, giáo sĩ và giáo hữu đã tề tựu đông đủ để nghênh đón. Linh cữu tiến vào nhà thờ giữa một rừng nến sáng lung linh.
Trong dịp di chuyển hài cốt của thánh nhân đã xẩy ra nhiều phép lạ, nên cũng khơi thêm lòng thành kính và tin tưởng của giáo dân đối với vị Giám mục thánh. Đó là trường hợp của một bà quý phái kia ở ven sông Vilaine, bà này chẳng may bị mù cả hai mắt. Với lòng tin mạnh mẽ, bà đã đến viếng và hôn xác thánh nhân, lòng thầm nguyện xin ngài chữa mình khỏi mù mắt. Dứt lời nguyện, mắt bà liền được sáng. Lòng tràn ngập vui mừng và biết ơn tha thiết, bà đã dâng một phần tư gia tài và nhiều ruộng đất vào nhà thờ để làm lễ hậu .
Một phép lạ khác làm chấn động cả kinh thành. Nhà thờ chính toà thành Ren, nơi an nghỉ ngàn thu của đấng thánh, một ngày kia bị phát hoả. Ngọn lửa quái ác đã không tha cho một tấm màn, một cây cột nào, mà không thiêu rụi hết.
Những hòn than đỏ rực, những khúc gỗ còn cháy dở lả tả rơi trên khắp lòng nhà thờ. Đất cháy đen, nhưng lạ thay tấm màn phủ trên mộ ngài vẫn lành nguyên như không có dấu vết gì của cơn hoả hoạn, ai nấy đều kinh ngạc hết chỗ nói.
Giáo dân khắp giáo phận càng mộ mến và sùng kính ngài như một vị đại thánh. Chẳng bao lâu, lòng tôn kính ngài lan tràn sang cả miền Burgonia bên Pháp.
Giáo Hội đã tôn phong ngài lên bậc hiển thánh và mừng lễ ngài vào ngày 06 tháng 01, tức cũng là ngày ngài tạ thế.