Thứ Năm, 17 tháng 1, 2019

Phút suy niệm ngày 17/1/2019

Filled under:

Phút suy niệm ngày 17/1/2019
"Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch (Mc 1, 40-45).
Phong hủi đối với người Do thái là chứng bệnh ghê tởm, vì thế người phong hủi thường ở những nơi cách biệt. Nếu đi đến đâu họ phải la lớn để mọi người biết mà tránh xa. 
Đức Giê-su đã đụng chạm đến người phong hủi không chỉ bằng bàn tay, nhưng còn bằng lòng thương xót trước nỗi khổ của con người và người ấy được sạch.
Người được chữa lành không biết nhiều về Chúa Giêsu nhưng anh chỉ biết Chúa đã chữa lành cho anh. Vì thế, anh ra đi và loan truyền về Người.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không chê người phong hủi nhơ bẩn. Chúa không gớm ghét thân phận tội lỗi của loài người chúng con. Xin cho chúng con cũng biết yêu thương những người yếu đuối, bệnh tật. Xin cho bàn tay chúng con cũng biết giơ ra đụng chạm đến và làm vơi nhẹ nỗi đau của người khác. Amen.


THÁNH ANTÔN
ẨN TU 

(521-357)
Đời sống thánh Antôn là tấm gương chiến đấu liên lỉ và can đảm với thù tặc Satan, xứng đáng cho mọi người công giáo noi theo.
Antôn chào đời vào năm 251, tại làng Cosma thơ mộng, một làng đẹp nhất miền Ai Cập thượng. Cha mẹ ngài thuộc dòng tộc quý phái; lại giầu lòng đạo đức. Cả hai kiên tâm giáo hoá con cái về học vấn lẫn tu đức. Mà vì nền giáo dục quá nghiêm khắc, cậu Antôn ít được ra khỏi nhà hay chơi đùa với các bạn đồng tuổi. Suốt đời niên thiếu hầu như cậu chỉ biết có dinh thự gia đình và nhà nguyện của làng.
Năm 18 tuổi, sau khi cha mẹ từ trần, Antôn ở với em gái. Hai anh em theo gương cha mẹ, hết lòng yêu thương nhau, và giúp nhau sống đạo đức. Cũng vào kỳ này, Antôn nghĩ nhiều đến việc dâng mình cho Chúa. Một hôm đi dự lễ, Antôn nghe đọc lời Phúc Âm Chúa phán với người giầu có: "Nếu con muốn nên trọn lành, con hãy trở về bán hết gia tài, đem tiền cho kẻ khó rồi đến đây theo Cha, con sẽ được kho tàng trên trời". Tưởng như Chúa nói với mình, Antôn nhất định áp dụng đến triệt để, và nhất quyết theo Chúa. Thánh nhân về nhà chia vườn đất cho người nghèo trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người túng bấn. Ban đầu ngài còn để lại chút ít lấy cái độ thân và nuôi em, nhưng khi suy đến lời Chúa: "Con đừng bận tâm đến ngày mai". Ngài lại đem bán tất cả những cái còn lại lấy tiền cho kẻ khó. Xong việc, ngài dâng cô em vào một cộng đồng Trinh nữ, và quyết chí bỏ thế gian.
Thời ấy ở Ai Cập chưa có mấy nhà dòng sống kiểu cộng đồng, vì những nhà đầu tiên đã bị phân tán trước ngọn gió bách hại. Đàng khác, đời sống ẩn tu dường như ít ai nghĩ đến. Sau nhiều ngày lang thang, Antôn tình cờ gặp một vị ẩn sĩ tuổi tác, Antôn liền xin dựng lều gần ông để tập sống đời ẩn tu. Đầu tiên vị ẩn sĩ trẻ tuổi này phân phối thời gian để học Thánh kinh, cầu nguyện và làm việc tay chân hầu phát triển cả thể xác lẫn tinh thần. Ngài không quên tìm cách ăn chay hãm mình, và dành thời giờ viếng thăm các đồng bạn chung quanh. Với ơn Chúa và thiện chí, không bao lâu ẩn sĩ trẻ tuổi ấy đã nên gương mẫu cho anh em cùng lý tưởng. Cảm phục nhân đức và đời sống khắc khổ của Antôn, các tu sĩ đã tặng người một tên đệm: "Đêicôla" nghĩa là kẻ thờ phượng Chúa.
Ngài đã chiến đấu, nhưng từ nay ngài càng phải chiến đấu hơn nữa với trăm ngàn cám dỗ của Satan. Chúng chịu làm sao được khi nhìn thấy tâm hồn thánh thiện của đầy tớ Thiên Chúa. Nhất nữa vì thánh nhân là người đã phát động phong trào tu hành phồn thịnh tại Ai Cập; Palestina và Arập. Sức chiến đấu can đảm của thánh nhân trong 25 năm trời, chứng minh đầy đủ câu châm ngôn: "Chúa không bao giờ để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta ".
Quả vậy, ma quỷ dùng chiến lược tấn công ngài như xưa chúng đã tấn công Chúa. Chiến lược thứ nhất chúng dùng vinh hoa thế gian và đau khổ đời tu hành. Chiến lược thứ hai là lạc thú tình dục với mọi hình thức khêu gợi. Và chiến lược thứ ba là lòng kiêu ngạo, coi mình như đã vượt mức thánh thiện. Và đây là chiến thuật đối phó của thánh nhân.
Sẵn sàng nghênh chiến với Satan bằng tinh thần suy niệm và cầu nguyện liên lỉ, bằng hy sinh và đánh tội. Chính vì thế, ngài cầu nguyện và đọc sách thâu đêm, ăn chay đánh tội hằng ngày. Mỗi ngày ngài chỉ ăn một tấm bánh nhỏ với muối và nước lạnh sau khi mặt trời đã lặn. Chiến đấu với cám dỗ này thánh nhân lại chuẩn bị chống lại mưu độc khác.
Chưa lấy thế làm đủ, thánh Antôn còn muốn sống đời khổ hạnh hơn: ngài bỏ lều, xuống một hầm kín và chật chội. Không muốn một ai viếng thăm, trừ một thầy bạn, thỉnh thoảng tiếp tế đồ ăn cho ngài. Thánh nhân trốn xa người thế nhưng không thoát khỏi quyến rũ, hành hạ của Satan. Quả thế, trong hầm tối tăm này, thánh nhân có khi phải nhức óc vì những tiếng gầm thét, tru tréo của Satan mặc hình thức thú vật hoặc phải chết lử vì những trận đòn hung ác.
Nhưng thánh Antôn vẫn kiên tâm, vì tin rằng Chúa hằng ở với ngài. Lần kia, sau trận đòn nhừ tử, thánh nhân tỉnh dậy thưa với Chúa: " Lạy Chúa, vừa rồi Chúa ở đâu. Tại sao Chúa không giúp con ngay phút đầu ?". Lập tức có tiếng phán: "Cha vẫn ở đây, để chứng kiến con chiến đấu. Cha thấy con chiến đấu dũng cảm lắm, con hãy tin vào Cha, Cha sẵn sàng tiếp ứng con !"
Năm 35 tuổi, thánh nhân muốn rút lui vào hẳn sa mạc, với một số lương thực vừa đủ sáu tháng. Không một chút do dự trước những khối bạc lượng vàng ma quỉ bầy ra để quyến rũ, thánh nhân băng qua sông Nil, trèo lên một ngọn núi cao gần Atphite Ngài ở đó suốt 20 năm, không tiếp đón ai, trừ mấy người bạn hằng năm hai lần đem của ăn tới cho ngài.
Nhưng "hữu xạ tự nhiên hương", dù thánh Antôn có ý tránh xa thế tục, thì hương thơm nhân đức lại lôi kéo nhiều khách thập phương đến thăm ngài. Ban đầu thánh nhân còn tìm lẽ nọ bầy kế kia để thoái thác, nhưng được ít lâu vì số người đến mỗi ngày một đông, lại nhất định tìm mọi cách để gặp mặt, nên thánh Antôn buộc lòng phải ra đón tiếp họ. Mục đích đoàn khách thập phương là đến thăm viếng và xin ngài dậy đường nhân đức. Và ngài cứ ở đây đón tiếp họ cho đến năm 305 mới nhận rõ ý Chúa là muốn ngài bỏ đời ẩn tu, đi lập các tu viện. Ngài lập nhiều tu viện, thu nhận nhiều môn đệ. Hằng năm ngài lần lượt đi thăm các cộng đồng tu sĩ và huấn dụ về đời sống thiêng liêng. Ngài theo kinh nghiệm bản thân, bầy tỏ cho các tu sĩ những mưu mô xảo quyệt của Satan. Và, theo ngài, khí giới chiến đấu hữu hiệu hơn cả là cầu nguyện, ăn chay, làm dấu thánh giá và thái độ coi khinh chúng.
Thêm vào đời sống tu hành khắc khổ, thánh Antôn còn mong mỏi được phúc tử đạo. Vậy năm 327, khi được tin Hoàng đế Maximinô Daia ra chỉ bách hại công giáo, và tại Alexanđria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu kiên trung, thánh nhân liền nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô. Vì thế, ngài cùng với một số tu sĩ xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận thành phố. Rồi ngài ngang nhiên tiến thẳng vào toà án, khuyến khích tín hữu giữ vững đức tin, không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các vị tử đạo cho đến phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo, Chúa muốn ngài thành một tấm gương can đảm chiến đấu và cầu nguyện ăn chay cho đại gia đình tu trì. Tuy nhiên thánh nhân vẫn lưu lại đô thị cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới trở gót về cộng đồng tu sĩ.
Và từ đấy cho đến cuối đời, thánh Antôn không được sống an tịnh như ý muốn. Ngài dựng lều trên sườn núi Gôtzin (Gokzin) và suốt ngày tiếp đón mọi thứ người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân. Năm 342, ngài đến thăm thánh Phaolô Thêbê và tận tình giúp đỡ trong an táng thánh Phaolô. Bấy giờ tiếng khôn ngoan và nhân đức thánh Antôn vang lừng khắp kinh thành nên đã được thánh tổ phụ Athanasiô mời về thành để cùng chung lực chống lại các tà giáo, nhất là bè rối Ariô. Cũng thời này, thánh Antôn được Chúa cho phép làm phép lạ: Ngài chữa nhiều bệnh nhân, trừ người bị quỷ ám và biết trước số phận nhiều linh hồn bên kia thế giới. Ngoài ra, thánh Antôn còn được ơn nói tiên tri như lời thánh tổ phụ Gioan Christon làm chứng.
Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp tới, ngài liền hội các tu sĩ lại quanh giường, khuyên bảo lần sau cùng. Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập. Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các tu sĩ và phó linh hồn trong tình yêu vô biên của Chúa ngày 17-1 năm 356.
Đến năm 561 dưới triều Hoàng đế Justiliô, người ta đem xác ngài về táng trong nhà thờ thánh Gioan Tẩy giả thành Alexanđria. Lòng sùng kính đối với thánh nhân bắt đầu từ các giáo đoàn Trung Đông và Tiểu Á. Phong trào tốt lành ấy mỗi ngày một lan rộng sang các nước Âu châu, và càng phổ cập hơn trong thế giới công giáo khi Giáo hội chính thức tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh.