Vài hàng sơ lược
Trước đoạn này, Chúa Giêsu cũng kể về hai dụ ngôn khác: Dụ ngôn người gieo giống (4, 1-20) và dụ ngôn cái đèn, đấu đong (4, 21-25). Về hài dụ ngôn trong đoạn này (26-29 và 30-32) Chúa Giêsu dùng để rao giảng về Nước Thiên Chúa.
Trong đoạn phúc âm này có thể chia ra làm ba phần: (1) Từ câu 26-29: Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên; (2) câu 30-32: Dụ ngôn hạt cải; (3) câu 33-34: Kết luận về các dụ ngôn.
- Ở đoạn (1) chúng ta có thể nhận ra được trọng tâm chính yếu hướng về việc hoa màu sinh ra. Nhưng cần phải nhấn mạnh thêm là, tự động sinh ra (câu 28). Tất cả những câu trước và câu sau gắn liền và hương về câu trọng tâm này.
- Trong khi đọan (1) nhấn mạnh đến việc hạt giống tự mọc lên, thì ở đoạn (2) trọng tâm hướng về việc hạt cải nhỏ nhất, nhưng khi mọc lênm thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ (câu 31 và 32). Đây là một sự tương phản rõ rệt. Ngoài ra, cả ba dụ ngôn: dụ ngôn người gieo giống (1-20) và hai dụ ngôn trong đoạn này đều có một điểm chung được nhấn mạnh và là hạt giống tựmọc lên, Nước Thiên Chúa sự tự đến vào thời gian nhất định, con người không có thể làm gì, ngoài việc gieo hạt xuống đất và chờ đợi.
- Đoạn (3) là kết luận về các dụ ngôn. Điều được nhấn mạnh ở đây là cách thức rao giảng của Đức Kitô: “Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn“ (câu 34)
* Suy niệm
26Người nói: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất.27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết.
Dụ ngôn bắt đầu bằng câu: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện.. .” Ở đây Nước Thiên Chúa chính là chủ đề chính yếu mà Đức Giêsu muốn rao giảng, muốn cách nghĩa cho mọi người hiểu. Vậy chuyện mà Ngài dùng để hướng về Nước Thiên Chúa là chuyện gì? Đó là chuyện một người vãi hạt giống xuống đất (câu 26b). Trong câu này, Rudolf Pesch đã chú ý một điều là Mác-cô sử dụng động từ gieo vãi trong thì quá khứ, aorist (ba,lh - từ động từ ba,llw - gieo vãi) Như vậy hành động của người gieo giống được kết thúc ở đây. Điều này có nghĩa gì? Điều quan trọng giờ đây là việc lớn lên của hạt giống được diễn tả rất cụ thể. Đó là trọng tâm cần được chú ý.
Trong câu 27 hình ảnh một người nông dân “lười biếng“ được diễn tả qua một vài hành động: “ngủ ... thức, không biết”. Nhưng có thực là anh nông dân này lười không? Phải chăng công việc của anh đã xong, giờ đây thì anh được thảnh thơi? Theo Adolf Pohl, thì việc gieo vãi hạt giống của anh nông dân không có ý nghĩa là vất bỏ, là quẳng đi không cần chú ý tới. Cũng giống như ở câu 3, Chúa Giêsu kể về người gieo giống: “Các người nghe đây! Người gieo giống đi ra gieo giống“, nhưng ở đây trong câu 27 này thì hình ảnh người nông dân được kể khác. Trong câu 3 thì việc gieo giống được kể rất chi tiết, còn ở đây thì hướng về thời gian sau khi gieo giống. Vì vậy mà hành động có tính cách bị động “ngủ” của người gieo giống ở đây được diễn tả như một hành động hướng về việc hạt giống mọc lên. Một cách nào đó, anh ta đã thi hành trách nhiệm của mình xong rồi, giờ đây thật bình tâm và thanh thản, anh ta tiếp tục sống và làm việc như mọi ngày, ăn ngủ, thức và làm việc cần làm. Còn chuyện hạt giống đâm chồi và mọc lên là chuyện sẽ đến và chuyện này đã có người khác lo rồi. Vì thế, nếu nói anh nông dân lười biếng thì tội nghiệp cho anh ta, và cũng không thể nói rằng anh ta chẳng màng gì đến việc hạt giống mọc lên thế nào. Như vậy, ở đây Chúa Giêsu muốn diễn tả một điều rất hay mà thánh Phao-lô đã nêu bật: “Vậy A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1Cr 3, 5-7) Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng và Ngài cũng muốn ban tặng, nên người nông dân đã hiểu được điều này, vì thế người nông dân chẳng lo lắng, chẳng phiền muộn, mà ngược lại anh vẫn ngủ, vẫn thức và vẫn làm việc bình thương như mọi ngày. Điều này có lẽ cần giúp chúng ta suy nghĩ lại chính niềm tin của mình. Chúng ta có ý thức về sức mạnh tiềm ẩn của Thiên Chúa không? Chúng ta có tin tưởng vào hành động và ảnh hưởng của Ngài không? Hay chúng ta chỉ tin vào sức mình mà thôi, để rồi trong mọi chuyện chúng ta ra sức làm, để đạt được thành công mỹ mãn và hãnh diện về điều đó? Đâu rồi sự hiện diện sống động của Thiên Chúa? Ngài có chỗ trong đời sống chúng ta không? Còn nếu cố gằng hết sức mình nhưng vẫn thất bại thì sao đây? Lúc đó chúng ta mới đi tìm Thiên Chúa sao?
Ngoài ra, việc người nông dân vẫn ngủ, vẫn thức và vẫn làm việc bình thương như mọi ngày diễn tả một điều: Thời gian cứ xoay vần như vậy có nghĩa là, đây là thời gian mà hạt giống cũng được “vần xoay”, cũng đang được cho lớn lên, để rồi đến một lúc nào đó sẽ nẩy mầm thực sự. Đó là cao điểm của dụ ngôn, cao điểm của ân sủng và tình yêu. Và nhìn kìa:
28Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa ."
“auvto,matoj –Tự động” có nghĩa là không có nguyên nhân rõ rệt, và qua đó nói lên việc mọc lên của hạt giống là hành động lạ lùng của Thiên Chúa đã làm. Ba hình ảnh rất sống động nói lên được việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm: “cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt“. Như vậy, việc hạt giống mọc lên và phát triển người gieo giống biết tới (câu 27), mà cần gì phải biết tới những công việc Thiên Chúa làm. Ngài luôn có mặt và làm những việc cần làm, để sự phát triển không chỉ nở hoa thơm, mà còn phải được trổ sinh trái chín trĩu nặng cành cây. Vâng, không có mặt người gieo giống, nhưng có Thiên Chúa hiện diện. Vậy là tốt lắm rồi!
Nhưng việc là lùng Thiên Chúa làm ở đây theo Rudolf Pesch không gạt bỏ con người và những gì con người làm ra rìa. Có lẽ điều con người có thể làm là gieo hạt, là ưng thuận, là kiên nhẫn đợi chờ, là trung thành với Đấng là Chủ Đất Trời, là tin tưởng và cậy trông hoàn toàn, đến nỗi mọi chuyện đều do Thiên Chúa làm, phần mình chỉ góp một chút thiện chí nhỏ nhoi. Vâng, thái độ rất căn bản mà nhà nông cần có là kiên nhẫn đợi chờ, bình tâm và tín thác hoàn toàn (ss. Giacôbê 5,7)
Giờ đã đến. Giờ của Thiên Chúa, giờ của tình yêu đã đến. Đây là sứ điệp trọng yếu của Đức Kitô rao giảng. Từ cái không không trở thành điều tuyệt hảo, từ một hạt giống nhỏ nhoi trở thành đồng lúc chin vàng mơn mởn với hương thơm lan tỏa. Và giờ đây:
“29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa ."
Vâng, đợi chờ đã đến đích. Kiên nhẫn và tin tưởng giờ đây được thưởng rồi: “Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín. (Gioen 4, 13) Tiên tri Gioen đã kêu lên như thế, nhưng trong ý nghĩa của tòa án chung thẩm, nơi Thiên Chúa sẽ kết án (xem thêm Gioen 4, 9-14). Còn với Giêsu tiếng kêu này không hướng về kẻ thù nào cả. Tiếng kêu gọi hãy cầm liềm hái ra gặt là tiếng kêu mừng vui về mùa gặt đã tới, vì cành lúa đã trĩu nặng lắm rồi. Vâng, mừng vui về ơn giải thoát của Gia-vê Thiên Chúa, như tiên tri Isaia nói: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng them nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt .” (Is 9,2) Trở về lại với điểm quan trọng của dụ ngôn. Đó là hạt giống “tự động” nảy mầm và lớn lên, qua đó chúng ta nhận ra rằng, niềm vui về mùa gặt chính là món quà lớn lao của Thiên Chúa. Vâng, món quà về hạt lúa được gieo vào trong lòng đất tối tăm, nhưng sau đó tự động nảy mầm, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Đây chính là công việc lạ lùng Thiên Chúa làm trước mặt chúng ta. Trong ý nghĩa này, theo Adolf Pohl, thì chính Giêsu cũng sống trong niềm tin tưởng trọn vẹn vào sự “tự động” và Ngài luôn hướng về niềm vui về mùa gặt sẽ đến trong thời cao điểm. Hành động lạ lung của Thiên Chúa xảy ra vào ngày thứ sáu tuần thánh và ngày Phục Sinh. Từ chương 8, trong Mác-cô, Giêsu đã từ từ loan báo hành động lớn lao này của Thiên Chúa. Đó là cái nhìn Kitô học trong dụ ngôn này.
Theo cái nhìn Kitô học luôn là hiệu quả trong nhãn quan của Giáo Hội học. Vâng, theo Adolf Pohl, thì với dụ ngôn này Giêsu đã đặt cộng đoàn của Ngài trong tâm tình của Dacaria chương 4, câu 6: “Không phải nhờ thế lực, cũng chẳng phải nhờ sức mạnh mà nó hoàn thành công việc Ta giao phó, nhưng là nhờ thần khí của Ta, ĐỨC CHÚA các đạo binh phán .” Vâng, điều xảy ra này cộng đoàn và các môn đệ của Giêsu không thể tự mình nài công vất vả để làm ra và tạo nên, mà họ chỉ có thể cầu xin, mở lời ngợi ca, làm chứng tá, và đôi khi phải đau khổ nữa.
Thực, một môn đệ đích thực không muốn những gì anh ta không thể làm. Anh ta không muốn tự mình xây lên Thiên Đàng. Đây chính là điểm mà chúng ta cần phải suy niệm sâu sa. Vâng, trong chính công việc truyền giáo, rao giảng tin mừng, làm chứng tá, xây dựng cộng đoàn hay dòng tu, ai ai trong chúng ta cũng hăng say, cũng ra sức. Đó chính là điểm son của lòng nhiệt thành và thiện chí. Nhưng nếu không khéo, thì chúng ta quên đi rằng, chúng ta chỉlà người gieo giống mà thôi. Còn việc hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết trái là của Chúa. Vâng, điều cần làm vẫn phải làm, đoạn đường cần đi vẫn phải đi, như anh người môn đệ đích thực, anh ta đã đi con đường mình cần đi rồi, thì với tất cả lòng khiêm tốn, anh ta dừng bước, và kiên nhẫn đợi chờ. Vâng, với lòng khao khát về Nước Trời sẽ đến, tình yêu sẽ nở bông lúa chín vàng nặng trĩu. Và khi mùa gặt đến rồi, anh ta với tất cả tấm lòng biết ơn sẽ mở lời tung hô Thiên Chúa, chứ không tự tung hô mình:
“Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ đại!
ta thấy mình chan chứa một niềm vui .” (Tv 126, 3)
30Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?
Chúa Giêsu mở đầu dụ ngôn hạt cải với hai câu hỏi. Qua đó, Ngài như mời gọi người nghe đi vào câu chuyện với Ngài. Vâng, Nước Thiên Chúa được ví với cái gì ?
31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.
Nước Thiên Chúa, một đỉnh cao chót vót, nhưng giờ đây trở nên nhỏ bé nhất. Đấng vĩ đại trở thành Kẻ bé nhỏ nhất. Một hình ảnh thật đặc biệt chứa đựng sự táo bạo. Vâng, tình yêu có thể thúc đẩy người ta làm những hành động ngược đời, chẳng logic chút nào trong đôi mắt của cuộc đời. Ờ đây nếu chiêm ngắm tường tận Giêsu, thì chúng ta sẽ nhận ra được cái ngược đời này. Vâng, ngược với cuộc đời, nhưng xuôi với Thiên Chúa. Và ở đây hạt cải mà Giêsu nhắc đến, theo Joachim Jeremias thì trong đôi mắt con người, hạt cải nhỏ như lỗ kim, nhỏ nhất trên mặt đất (câu 31), đến nỗi người ta ít chú ý đến.
Trong sự so sánh này, theo Joachim Jeremias thì điều mà Giêsu muốn so sánh với Nước Thiên Chúa, là ở phần sau. Nghĩa là, từ hạt cải nhỏ nhất, cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ. Những cây cải này theo Jeremias, ở bờ hồ Giê-nê-gia-rét, cao từ 2,5m đến 3 m. Và cây cải này có nhiều cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Cây cải này với Adolf Pohl như là Cây của vương quốc Thiên Chúa mọc lên ngay tại chỗ hạt giống nhỏ bé được gieo, và người người đã từng đi qua nhưng chẳng màng nhìn đến. Giờ đây, chim trời tìm đến chú ẩn. Chim được nhắc ở đây không còn là loại chim biểu tượng cho sự dữ mà Mác-cô nhắc đến trong câu 4: “Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất .” Loài chim ở đây liên hệ với loài chim mà Êdêkien nhắc đến, biểu tượng cho tất cả mọi dân tộc: “Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ .” (31,6) Vâng, theo Êdêkien thì làm tổ trên cành cây, còn theo Mác-cô thì làm tổ dưới bóng cành cây. Bóng cây ở đây không phải là bóng của thần chết, mà là bóng mát che đầu, bóng che chở mọi người trước ánh nắng chói chang nóng nực kia.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì hình ảnh hạt cải này cũng nói lên sứ mạng của Giêsu. Một sứ mạng thật mầu nhiệm. Vâng, đó là mầu nhiệm về hành động yêu thương của Thiên Chúa đang sống động, đang bao trùm và ấp ủ thế giới này. Hành động của Thiên Chúa được thể hiện nơi Người tôi trung chẳng là gì, và cũng chẳng có nơi gối đầu, trong khi chim trời có tổ để ở. Qua chính sự dấn thân, việc làm và lời rao giảng của Ngài, mà hạt giống là Nước Trời được gieo vào lòng đất. Không chỉ dừng ở đấy, Người tôi tớ này bị hành hạ và đày ải, bị bắt bớ và kết án, bị đóng đinh trên thập giá và chết đi. Nhưng cái chết không thể thẳng được Ngài. Hay cái chết là điều cần thiết. Vâng, nhưhạt lúa mì cần phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái, thì Giêsu cũng cần chết đi, để rồi từ đó mà Ngài đã đem lại cho nhân loại Cây Cải thật lớn với cành lá xum xuê, với bóng mát che đầu. Vâng, nơi đây dưới cây cổ thụ này, chim trời thích tìm đến, và mọi người ai tìm tới sẽ tìm thấy nơi gối đầu, tìm thấy quê hương và ngôi nhà để trú ẩn. Vâng, trú ẩn cả cuộc đời. Theo Rudolf Pesch, thì đây chính là ý nghĩa của động từ theo tiếng Hy-lạp: kataskhnou/n (kataskhno,w) – trú ẩn, làm tổ cả cuộc đời trong vương quốc Nước Thiên Chúa.
Vương quốc này theo Rudolf Pesch được tiềm ẩn trong cộng đoàn, trong Giáo Hội. Vâng, Giáo Hội chính là người có trách nhiệm gìn giữ chỗ cho Vương Quốc Thiên Chúa. Vâng, trong Giáo Hội nhỏ bẻ và bất toàn này Cây Vương Quốc rất thánh và rất huy hoàng đang ẩn mình. Như vậy, cây cải lớn lao này là biểu tượng cho vương quốc vĩ đại và mạnh mẽ, trong đó mọi người được trú ẩn, được chở che. Trong sách của tiên tri Edêkien chúng ta đọc được hình ảnh này:
“ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót,
Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non;
chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi.
Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.
Nó sẽ trổ cành và kết trái
thành một cây hương bá huy hoàng.
Muông chim đến nương mình bên nó,
và ẩn thân dưới bóng lá cành .” (17, 22-23)
Tóm lại ý nghĩa của dụ ngôn này theo Jeremias là: Từ sự bắt đầu nhỏ bé nhất , từ cái không không chẳng đáng nhìn trong đôi mắt con người, Thiên Chúa đã làm nên vương quốc vĩ đại, bao la và mạnh mẽ của mình. Trong vương quốc này người người, nhà nhà của của thế giới được phép trú ẩn và sống dồi dào.
33Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe.34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Đây là phần kết luận về các dụ ngôn trong đoạn này của Mác-cộ Ở đây từ ngữ “Lời” gắn liền với từvựng “Lời” được nhắc đến 8x trong đoạn trước đó, từ câu 14-20. Giêsu chính là người đi gieo giống.Lời chính là Sứ Điệp, là Tin Mừng, là lời kêu gọi về sự hiện diện của Vương Quốc Thiên Chúa trong chính Con Người Giêsu và những gì Ngài làm. Nhưng sứ điệp này Giêsu trình bày một cách gián tiếp, không bao giờ trình bày một cách trực tiếp. Cách thức cổ điển về việc trình bày gián tiếp là các dụ ngôn. Nhưng dụ ngôn không chỉ là hình thức rao giảng của Giêsu, mà còn là lời dạy dỗ (xem Mc 4, 1tt), hay còn là lời tiên tri, là những lời dùng trong lúc tranh luận, là lời hướng dẫn mang tính cách luân lý. Như vậy Giêsu không bao giờ nói về chính Ngài một cách trực tiếp và thẳng thẳn cho người nghe, như cách Ngài nói với các môn đệ của mình, như trong Mc 8, 31-32 về cuộc thương khó của Ngài.
Nhưng tại sao Giêsu lại không nói rõ ràng và thẳng thắn cho dân chúng? Lý do không nằm ở nơi Ngài, mà nơi dân chúng. Vâng, Ngài rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Ở đây chúng ta nhận ra rõ ràng nghệ thuật giáo dục của Giêsu. Hơn nữa, nếu Giêsu nói trực tiếp và rõ ràng, thì có thể sẽ đem lại một bầu khí áp đặt. Hơn nữa, lời rao giảng trực tiếp cũng có thể đưa tới tình trạng là dân chúng sẽ ùa vào và trở thành một tập thể không tin tưởng vào Ngài và chống lại Ngài, vì họ hay một vài người trong họ không hiểu những gì Ngài giảng dạy.
Như vậy, lời rao giảng theo tính cách tượng hình, dùng dụ ngôn …là cách thức dễ dàng đi vào lòng người, dễ dàng đi vào tập thể nhất. Hơn nữa, dụ ngôn Giêsu dùng lại liên hệ rất chặt chẽ với đời sống thường ngày của dân chúng nữa chứ. Vì thế, Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn.
Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết. Với nhóm môn đệ của mình, những người đã hiểu Giêsu một cách nào đó, thì Giêsu không sợ phải giải thích nhiều hơn hay nói thẳng ra rõ ràng. Có lẽ Giêsu đã biết chắc rằng, nhóm môn đệ này, khi nghe Lời giảng dạy trực tiếp sẽ không chống lại Ngài và trở thành những kẻ không tin vào Ngài. Ngoài ra, những gì các môn đệ được nghe trực tiếp cũng là một ân sủng: “Người nói với các ông: "Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn” (câu 11)
|