Thứ Ba, 26 tháng 5, 2015

Dấu Thánh Giá

Filled under:

Làm Dấu Thánh Giá là tuyên xưng Đức Tin, tuyên xưng Chúa Ba Ngôi. Trong số kinh nguyện Công giáo phổ biến nhất là Dấu Thánh Giá. Vào bất kỳ nhà thờ Công giáo nào trên thế giới bạn đều thấy ai vào nhà thờ cũng làm Dấu Thánh Giá. Mỗi ngày chúng ta đều làm Dấu Thánh Giá ngay từ khi thức dậy buổi sáng, và làm nhiều lần trong ngày.
Bước vào nhà thờ Công giáo ở bất cứ nơi nào trên thế giới, người ta đều thấy những người bước vào làm Dấu Thánh Giá, cả trước và sau mỗi bữa ăn. Trong cuốn “Nói Về Các Bí tích”, Lm Arthur Tonne kể một câu chuyện hồi thế chiến II về một ngôi làng ở Đức bị lính Mỹ chiếm đóng. Dân làng không biết sẽ bị đối xử thế nào nên lo lắng về sự an toàn. Nhưng người ta tin rằng sẽ bình an khi chứng kiến hai binh sĩ Mỹ đứng trước Thánh Giá, bỏ mũ xuống, và làm Dấu Thánh Giá.


Từ khi sinh ra, trẻ em Công giáo để ý cha mẹ đưa tay làm Dấu Thánh Giá và đọc: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Khi bệnh hoặc nửa mê nửa tỉnh, người Công giáo vẫn thường cố gắng làm Dấu Thánh Giá khi cầu nguyện. Chúng ta được đóng dấu ấn thánh này khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, ấn tín này ghi đậm suốt cuộc đời, và tuyên xưng khi sắp qua đời.
Hằng ngày, khi đi ngủ, khi thức dậy, khi tham dự Thánh lễ, khi đi qua nhà thờ, khi cầu nguyện, và nhiều trường hợp khác, chúng ta đều làm Dấu Thánh Giá. Chúng ta dùng Dấu Thánh Giá để ca tụng và kêu xin Chúa Giêsu bất cứ lúc nào trong cuộc sống. Lời cầu này không mới lạ. Năm 211, trong cuốn The Chaplet (chuỗi hạt, tràng hạt), thần học gia và tác giả Công giáo Tertullian nói về việc làm Dấu Thánh Giá như nhiệm vụ hằng ngày: “Trước khi di chuyển, đi xa hoặc đi đâu đó, khi mặc quần áo, khi tắm, khi ngồi vào bàn ăn, khi thắp đèn, hoặc khi làm bất kỳ hành động nào trong cuộc sống đời thường, chúng ta vẫn vẽ Dấu Thánh Giá trên trán”.
Nhiều tác phẩm của các tác giả Kitô giáo từ thế kỷ II, III, và IV – như Thánh Cyprian, Thánh Cyril thành Jerusalem, Thánh Hippolytus thành Rôma, và Origen, đều nói rõ rằng các Kitô hữu thường làm Dấu Thánh Giá ở mọi nơi. Năm 287, Thánh nữ Fides (cũng gọi là Thánh Faith hoặc Thánh Fay – theo Việt ngữ là Tín) chịu tử đạo để tuyên xưng đức tin. Câu chuyện về việc bà bị hành hạ được lan truyền trong các nhóm Kitô hữu, nói rằng bà đã làm Dấu Thánh Giá trên trán, miệng, và ngực trước khi chết. Qua nhiều thế kỷ, Giáo Hội vẫn tôn kính cho rằng không có phép lành nào trọn vẹn nếu không làm Dấu Thánh Giá.
khi làm Dấu Thánh Giá, các Kitô hữu tưởng nhớ chân tay Chúa Giêsu bị kéo dãn ra, chịu khổ nạn trên đồi Golgotha vì chúng ta. Chúng ta nhớ lại cách Ngài chết để cứu độ chúng ta và cách Ngài phục sinh, trao ban cho chúng ta sự sống đời đời. Chúa Ba Ngôi được tôn kính trong Dấu Thánh Giá khi chúng ta đặt tay lên trán (Chúa Cha), ngực (Chúa Con), và hai vai (Chúa Thánh Thần). Thánh Gioan Maria Vianney nói rằng làm Dấu Thánh Giá là “làm cho hỏa ngục run rẩy”. Ngày nay, người Công giáo làm Dấu Thánh Giá bằng tay phải, các ngón tay thẳng ra, để nhận biết 5 vết thương của Chúa Giêsu.
Trong số các Kitô hữu thời sơ khai, Dấu Thánh Giá thường được làm trên trán và dùng một ngón tay, thường là ngón cái như khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá trên trán, miệng, và ngực trước khi nghe Phúc Âm (gọi là Dấu Kép). Với những người đầu tiên theo Chúa Giêsu, Dấu Thánh Giá được làm trên đầu để nói lên rằng một người đã nhận biết sự hy sinh của Đức Kitô trên Thánh Giá, và nhận biết người làm Dấu Thánh Giá là người đã được rửa tội. Rồi như ngày nay, các Kitô hữu tin rằng Dấu Thánh Giá bảo vệ họ khỏi sự dữ, ma quỷ, và những cơn cám dỗ.
Việc dùng một ngón tay vẫn được tiếp tục cho tới thế kỷ V, khi nhóm dị giáo Monophysites tuyên bố rằng Đức Kitô chỉ có một bản tính – nghĩa là Ngài chỉ có thần tính chứ không có nhân tính. Để phản đối phái Monophysites, các Kitô hữu xác định Đức Kitô có hai bản tính, thiên tính và nhân tính, và họ bắt đầu làm Dấu Thánh Giá với hai ngón tay, ngón cái và ngón trỏ hoặc ngón trỏ và ngón giữa. Để nhấn mạnh niềm tin, họ làm Dấu Thánh Giá lớn hơn trước, và làm với chuyển động rõ ràng từ trán xuống ngực và hai vai.
Vài thế kỷ qua, đặc biệt là Giáo hội Đông phương, người ta chú trọng việc nhận biết Chúa Ba Ngôi và hai bản tính của Chúa Giêsu, họ dùng ba ngón tay.
Hơn 1.200 năm, đa số người Công giáo đều làm Dấu Thánh Giá theo cách đó – nghĩa là Giáo Hội Đông phương và Tây phương đều chạm trán, ngực, và hai vai, từ phải sang trái, với ba ngón tay. ĐGH Innocent III nói: “Dấu Thánh Giá được tạo thành bởi ba ngón tay, vì làm Dấu Thánh Giá để cầu khẩn của Chúa Ba Ngôi… từ trên xuống dưới, và từ phải sang trái vì Chúa Giêsu từ trời xuống thế gian và từ dân Do Thái tới dân ngoại”.
Các lý do căn bản khác về việc chạm vai phải rồi vai trái là vì “Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha” và bên phải biểu thị ánh sáng và điều tốt lành, còn bên trái biểu thị bóng tối.
Tuy nhiên, vào cuối thời Trung Cổ, người Công giáo Tây phương làm Dấu Thánh Giá dùng ngón giữa chạm vào vai trái rồi sang vai phải. Theo các nguồn tài liệu, cách này và các lý do căn bản là lòng sùng kính hồi thế kỷ XV được dùng bởi các nữ tu Dòng Brigittine Sion ở Isleworth (Anh quốc), cho rằng người ta nên bắt đầu dùng từ trán và chuyển xuống, rồi sang trái và sang phải. Điều này nói lên rằng Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha (trán), sinh ra làm người (ngực), chịu khổ nạn trên Thánh Giá (vai trái), và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (vai phải). Cách này trở thành tiêu chuẩn trong Giáo Hội Tây phương. Không hiểu tại sao có sự thay đổi này hoặc không biết tại sao lại bắt nguồn từ Giáo Hội Tây phương, tiếp tục dùng ba ngón tay để làm Dấu Thánh Giá và từ vai phải sang vai trái.
Dấu Thánh Giá phản ánh mầu nhiệm cứu độ, là công khai tuyên xưng Đức Tin ở các thánh, những người tín trung và những người bình thường, cả người giàu và người nghèo. Cách đơn giản này là hành động đạo đức và là điều người Công giáo tin tưởng.
D. D. EMMONS

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Catholic Digest)


Hiểu giới tính qua mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Một người đã cố gắng giải thích Thần học Cơ thể (Theology of the Body) cho những người bạn của anh ta, và yêu cầu cách giải thích tốt về những gì người Công giáo muốn nói khi chúng ta nói rằng giới tính nên là “khuynh hướng hiệp nhất và sinh sản”. Điều chúng ta muốn nói là:
1. Hiệp nhất: Giới tính thu hút vợ chồng thành sự kết hiệp hoàn hảo hơn với nhau; qua đó, “cả hai nên một xác thịt” (St 2:24), theo cách chỉ có thể hiểu đầy đủ đối với Thiên Chúa.
2. Sinh sản: Giới tính kêu gọi cuộc sống mới, hoặc chí ít cũng là mở lòng ra với cuộc sống mới.  Tình yêu đích thực không ghen tuông, mà sáng tạo.
Để hiểu giới tính, tôi nghĩ rằng người ta cần hiểu Chúa Ba Ngôi.  Trong Tam Vị Nhất Thể, Chúa Cha yêu Chúa Con, Chúa Con được yêu thương, và cách diễn tả tình yêu đó là Chúa Thánh Thần. Lm. Barron làm tốt việc giải thích điều đó ở đây. Chính xác vì tình yêu mà Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và muôn loài trong đó. Thế nên Chúa Ba Ngôi vừa Hiệp nhất vừa Sáng tạo. Chính tình yêu đó thu hút Chúa Cha và Chúa Con thành Thiên-Chúa-Hiệp-nhất-bất-khả-phân-chia, và tình yêu đó kiến các Ngài tạo dựng vũ trụ.
Tình yêu của con người cũng như vậy. Khi chồng yêu vợ, cả hai thực sự nên một, sự thân mật tâm hồn và thể lý đó ước muốn sản sinh sự sống mới. Sự sẵn sàng sản sinh sự sống mới này, và ngay cả sự ham muốn, là dấu hiệu về điều gì đó lành mạnh về tâm linh hơn chỉ là dục lạc (hedonistic).
Trong tình dục hôn nhân cũng vậy, hai người nên một (St 2:24), nhưng hai người cũng là ba, khi tình yêu họ có dạng một đứa con chưa sinh ra. Như vậy tình dục “được thiết kế” làm nguyên nhân để hai người trở thành một điều khác tốt đẹp hơn, điều mà cả ba và một, phản ánh cách thức Chúa Ba Ngôi là Ba và là Một. Như vậy mỗi đứa con được sinh ra theo cách này đều được “đóng ấn” hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong khái niệm của Ngài.
Đó là lý do chúng ta có thể nói về Chúa Ba Ngôi là Gia đình Đệ nhất: mỗi Thành viên trong Tam Vị Nhất Thể tự ban phát chính mình cho hai Ngôi Vị kia. Hãy đọc Kinh Thánh, bạn sẽ hiểu rằng thay vì tuyên bố tính vĩ đại của mình, mỗi Ngôi Vị trong Tam Vị Nhất Thể tập trung vào cách vĩ đại của hai Ngôi Vị kia:
       – Chúa Cha ca ngợi Chúa Con trong Mt 3:17 và Mt 17:5, và là Đấng làm chứng về Ngài (Ga 5:31-32).
       – Chúa Con thi hành Thánh Ý Chúa Cha (Ga 5:19-20), trong khi từ chối làm chứng cho chính Ngài (Ga 5:31-32).
       – Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần trên Chúa Con, trong khi Chúa Con ban Chúa Thánh Thần trên chúng ta (Cv 2:33).
       – Có thể lời ca ngợi cao nhất mà Chúa Giêsu có thể nói là dành cho Chúa Thánh Thần: “ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”  (Ga 16:7).
       – Chúa Thánh Thần được Chúa Cha sai đến, nhân danh Chúa Con, và dạy chúng ta biết về Chúa Con la Đức Giêsu (Ga 15:26), điều đó chỉ nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta có thể nói rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa (1 Cr 12:3).
       – Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống (Dt 9:14).
       – Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta tới Chúa Cha (Gl 4:6; Ep 2:18).
Hãy nhìn vào Chúa Giêsu chúc tụng Chúa Cha khi tràn đầy niềm vui qua Chúa Thánh Thần (Lc 10:21), và bạn có được hình ảnh hoàn hảo về tình yêu. Chúa Cha gởi Chúa Thánh Thần đến, Chúa Thánh Thần đổ đầy tình yêu vào Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu ca tụng Chúa Cha. Chúa Giêsu ca tụng sự Hiệp nhất của Tam Vị Nhất Thể (Trinitarian Unity) ngay lập tức (x. Lc 10:22).
Đây là một trong các lý do mà ngừa thai là sai trái. Dùng các biện pháp tránh thai để ngăn cản tính sản sinh của tình yêu trong khi dùng các phương tiện khác là xuyên tạc hoặc hư hỏng (perversion). Chúng ta đang cố gắng kiểm soát và kiềm chế tình yêu: cho phép hai nên một mà không cho phép họ thành ba. Điều đó vô tác dụng – vợ chồng ngừa thai là đang ở mức nguy cơ cao về ly hôn nhiều hơn so với các cặp vợ chồng không ngừa thai. Thay vì đổ đầy tràn tình yêu cho nhau, người ta lại giữ lại cho mình.
Nếu một người ngồi ăn, nhai đồ an, thưởng thức hương vị, và lại nhổ ra, chúng ta thấy nó không lành mạnh và bất thường đối với thức ăn. Điều đó không xảy ra với đồ ăn ngon: chính lý do thực phẩm là món ngon để ăn vì cơ thể chúng ta cần nó để sống. Niềm vui của việc ăn uống là một cách tinh tế mà chúng ta làm những gì nên làm (ăn uống). Trích xuất niềm vui mà không thỏa mãn nhu cầu của cơ thể về việc hấp thụ calo sẽ làm cho việc khoái khẩu trở thành vô nghĩa.
Chúng ta nhận biết kế hoạch của Thiên Chúa (làm cho thực phẩm thành vui thú, nên người ta mới ăn, như vậy mới không chết đói), và quyết định tích cực cản trở nó. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất” (St 1:22). Và chúng ta được thu hút vào sự kết hiệp hôn nhân – niềm vui đó là cách khuyến khích. Chúng ta khả dĩ nhận biết điều này nhờ vào chính “thiết kế giới tính”, hoặc bằng cách nhìn vào thế giới động vật. Ở đó, các khoa học gia cho chúng ta biết rằng động vật không hưởng lạc thú, nhưng chúng chỉ hành động theo bản năng sinh sản. Như vậy, bằng chính điểm cốt lõi, đó là khuynh hướng sinh sản. Đó cũng là Hiệp nhất và Niềm vui để đa số các cặp vợ chồng nhắm vào hồng ân Thiên Chúa đã ban tặng cho nhân loại. Đối với thực tế sinh sản của giới tính, nhai và nhổ ra, là phản lại tình dục đích thực và chống lại Thiên Chúa.
Vợ chồng nên noi gương yêu thương của Chúa Ba Ngôi. Hãy đổ đầy tràn tình yêu cho nhau, thu hút vào sự kết hiệp hoàn hảo, và sẵn sàng thể hiện tình yêu đó để hình thành những đứa con.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ CatholicDefense.blogspot.com)