Có phải tấm vải lanh này đã bao bọc thi thể của Chúa Giêsu sau khi Người bị đóng trên Thánh Giá không? Có phải đây là bằng chứng về sự phục sinh của Người không? Trong nhiều thế kỷ những câu hỏi này đã được đặt ra bởi các nhà thần học, sử học, các nhà khoa học cũng như hàng triệu khách hành hương.
Những gì được đồng ý đó là trên khăn liệm phản ánh những vết thương rất phù hợp với những gì Người phải chịu đựng khi bị đóng đinh trên Thánh Giá, như đã được mô tả trong Tin Mừng ... và tấm vải lanh còn in vết máu trên đó.
Enrico Simonato, Bảo tàng Shroud:
“Thông qua những kiểm tra về chất liệu, nó đã được xác định rằng Khăn Liệm có máu của con ngườitrên đó, và cũng được xác minh rằng đó là loại máu AB.”
Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất về nguồn gốc của nó hoặc làm thế nào mà hình ảnh của một người đàn ông râu quai nón đã được in trên tấm vải.
Bây giờ Khăn Liệm đang trên màn hình công cộng tại Vương cung Thánh đường Turin. Được bao phủ bằng hộp thủy tinh kiểm soát nhiệt độ, trong 2 tháng, tấm vải dài 14 feet dự kiến sẽ được hơn 2 triệu khách hành hương chiêm ngắm.
Đó là một trong những đối tượng nghiên cứu kỹ lưỡng nhất trong Kitô giáo. Cuộc kiểm tra cuối cùng được thực hiện vào năm 1978, gợi ý rằng tấm vải này có lẽ là niên đại của thập niên 1300. Không phải tất cả các chuyên gia đều đồng ý.
Gian Maria Zaccone, Giám đốc khoa học của Bảo tàng Khăn Thánh:
“Đối với nhiều tín hữu thì đó là cách để tham gia vào cuộc trò chuyện về cuộc Khổ nạn của Đức Kitô và tình yêu của Người. Đối với những người khác đó là một cách để phản ánh về sự đau khổ, bạo lực, tội ác vv ...”
Giáo hội cũng chưa chính thức xác nhận và cũng không phủ nhận tính xác thực của tấm vải liệm này, thay vì tập trung vào sự phản ảnh tinh thần khởi phát từ đó.
Gian Maria Zaccone:
“mấy năm trước đây, một Giám mục trả lời: Tôi không biết có phải Khăn Liệm này của người sống lại từ cõi chết hay không, nhưng những gì tôi có thể nói là đức tin của nhiều linh hồn người chết đã trở lại sự sống trước Khăn Liệm.”
Khăn liệm sẽ được trưng bày cho đến ngày 24 tháng 6.
Jos. Tú Nạc, NMS