Phút cảm nhận Tin Mừng ngày 21-3-2020
Người thu thuế đứng đàng xa, vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18,13).
Lời cầu nguyện của người pharisiêu, không phải để thờ phượng Thiên Chúa, cũng không mong trở nên người công chính, nhưng là để khoe khoang và khinh chê người thu thuế tội lỗi kia. Mỗi khi ra đường, ông này rất kiêu hãnh, ngẩng đầu cao cho người ta thấy khuôn mặt hãnh diện, dáng đi uy nghi, các cuộn kinh thật lớn, các tua áo thật dài, và nghĩ; "mình thật xứng đáng để cho thiên hạ kính nể".
Ngược lại, người thu thuế biết mình là kẻ tội lỗi, chỉ biết đấm ngực ăn năn về các tội đã phạm, để mong được ơn tha thứ từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thích những tâm hồn khiêm tốn thật lòng như người thu thuế. Quả vậy, tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.
Cảm nhận tin mừng: Chúng con đã từng ngã lòng, từng mất niềm tin vào Chúa. Trong mùa chay thánh này, chúng con quyết quay về với Chúa, chúng con phải thành thật hoán cải và cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa. Chúa dạy chúng con khiêm tốn đến với Chúa khi cầu nguyện như người thu thuế trong bài Tin Mừng. Xin giúp con ghi nhớ Lời Chúa dạy. Amen.
Thánh Nicolas Flüe (1417-1487)
Thánh Nicolas de Flue sinh vào năm 1417 tại Sachsen, Thụy sĩ. Ngài kết hôn với bà Dorothée Wiss và có được mười người con. Ngài là điền chủ một nông trại to lớn trong thung lủng Kalch. Tuy chỉ là chủ trại, ngài đã cầm đầu dân chúng chống lại những Quận công xứ Autriche muốn đồng hóa xứ sở của ngài. Là một người có tài năng điều khiển và khôn khéo trong việc hòa giải nên đã đem lại hòa bình cho dân chúng như ý nghĩa của Tin Mừng. Thánh Nicolas de Flue là con người cầu nguyện và có đức tin vững mạnh. Vào năm 1467, sau 20 năm sống đời vợ chồng, thể theo tiếng gọi trong tâm hồn, ngài rời nếp sống gia đình để sống một cuộc đời ẩn tu trong miền núi Welch. Dù được người vợ đạo đức khuyến khích và đồng thuận với ý định của ngài nhưng những người chung quanh và dân chúng không am hiểu đều lên tiếng chê trách ngài. Tuy vậy hai người cháu đã đến giúp ngài xây dựng một thánh đường nhỏ để làm nơi thờ phượng và cầu nguyện. Tiếng đồn thánh thiện được loan truyền trong vùng nên có nhiều người đến xin giúp cầu nguyện và xin lời chỉ giáo cùng linh hướng. Trong cuộc sống khổ tu dù tinh thần luôn hướng về Chúa nhưng lòng say mê yêu nước vẫn luôn ầm ĩ cháy trong lòng. Vào năm 1481, ngài đã viết “Hiến ước Stans”, một qui chế dành cho quốc gia Thụy sĩ, qui ước đó trở thành những điều lệ căn bản còn được áp dụng cho đến ngày nay. Nước Thụy Sĩ, biểu tượng hòa bình và an lạc, là do ảnh hưởng của thánh nhân.
Người được toàn dân, Tin Lành cũng như Công Giáo, yêu mến và tôn kính. Ngài qua đời ngày 21 tháng 3 năm 1487 và thánh tích còn tại nhà thờ Sachsen, Thụy Sĩ. Đức Giáo Hoàng Innocent X xác nhận việc tôn kính Chân Phước Nicholas ở Flue ngày 01 tháng 2 năm 1649. Gần ba trăm năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XII tôn phong hiển thánh cho Chân Phước Nicholas ở Flue ngày 15 tháng 5 năm 1947. Ngài là bổn mạng của xứ Thụy sĩ
Người được toàn dân, Tin Lành cũng như Công Giáo, yêu mến và tôn kính. Ngài qua đời ngày 21 tháng 3 năm 1487 và thánh tích còn tại nhà thờ Sachsen, Thụy Sĩ. Đức Giáo Hoàng Innocent X xác nhận việc tôn kính Chân Phước Nicholas ở Flue ngày 01 tháng 2 năm 1649. Gần ba trăm năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XII tôn phong hiển thánh cho Chân Phước Nicholas ở Flue ngày 15 tháng 5 năm 1947. Ngài là bổn mạng của xứ Thụy sĩ