Chân Phước Maria Salvat Romero của Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội |
Năm 1936, khi cuộc nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ, gia đình cô lánh nạn tại Bồ Đào Nha, rồi sau mới trở về Madrid. Trong những năm thử thách này, Mary Elizabeth bắt đầu nhận ra ơn gọi sống đời tận hiến của mình. Năm 1944, cô gia nhập tu viện các nữ tu Đồng Hành Cùng Thánh Giá ở Seville. Năm sau đó, cô được nhận áo dòng, lấy tên là nữ tu Maria Vô Nhiễn của Thánh Giá, và bắt đầu đời sống một tập sinh.
Cô nổi bật với sự dấn thân, tinh thần hy sinh, lòng yêu mến sự thanh bần và khiêm nhường của mình. Năm 1947, cô đã được khấn tạm. Nhìn nhận những chuẩn bị nhân bản và tinh thần của Maria, nhà dòng đã giao phó cho cô một số vị trí trách nhiệm trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, và trong việc cai quản nhà dòng. Năm 1977 cô được bầu là Mẹ bề trên của nhà dòng. Cô được bầu lại ba lần trong những năm khó khăn sau Công Đồng Vatican II.
Mẹ bề trên Maria đã lo lắng cách riêng cho việc đào tạo thường xuyên cho các chị em của mình, đặc biệt là những người đã trải qua những khoảnh khắc của khủng hoảng và hoang mang trong những năm đầy những xáo trộn. Tính cách thanh thản và vui tươi của Mẹ bề trên Maria đã giúp tạo ra một môi trường tin cậy và hiệp thông. Mẹ đã đưa ra một kinh nghiệm đời sống tu trì mãnh liệt đánh dấu bởi một ý thức sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa và sự theo đuổi liên tục Thánh Ý của Ngài.
Năm 1994, bác sĩ chẩn đoán Mẹ bề trên Maria có một khối u và phải mổ. Mẹ can đảm đối diện với căn bệnh của mình với sức mạnh tinh thần và trong sự ngoan ngoãn vâng theo ý muốn của Thiên Chúa. Mẹ qua đời an bình vào ngày 31 Tháng Mười năm 1998 tại nhà mẹ của nhà dòng ở Seville. Mẹ đã được phong chân phước tại Seville vào ngày 18 tháng 9 năm 2010.
Chân Phước Vincenzo Grossi sinh tại Pizzighettone (Cremona), vào ngày 09 Tháng Ba, 1845, là con áp út của một gia đình giàu có về đức tin và các giá trị nhân bản. Sau khi được đón nhận Chúa Giêsu lần đầu tiên trong bí tích Thánh Thể, cậu thanh niên trẻ Vincenzo bày tỏ ý định muốn gia nhập chủng viện, vì bị thu hút bởi ơn gọi linh mục.
Vì những lý do gia cảnh, ngài đã bị buộc phải hoãn kế hoạch của mình để lao động trong nhà máy của cha mình, kết hợp việc này với lòng say mê học hỏi. Ngài đã làm tất cả điều này với lòng kiên quyết và hân hoan, chờ đợi "thời khắc của Chúa". Cuối cùng, ngài được nhận vào chủng viện ngày 04 Tháng 11 năm 1864 và được thụ phong linh mục ngày 22 tháng 5 năm 1869.
Sau nhiều kinh nghiệm mục vụ ban đầu, ngài được bổ nhiệm làm chánh xứ Regona (một quận trong tỉnh nhà Pizzighettone) và sau đó là chính xứ Vicobellignano (Cremona), nơi ngài tiếp tục hoạt động trong ba mươi năm bốn năm sau đó. Chiến đấu với sự ngu dốt và nghèo nàn tiêu biểu của các thị trấn trong miền Lombard vào cuối thế kỷ XIX, ngài đã làm việc đặc biệt với những người trẻ, là những người mà ngài cung cấp chỗ ăn ở, giảng dạy và đào tạo để xác nhận phẩm giá là con cái Thiên Chúa của họ.
Ngài đã chọn một cuộc sống nghèo khổ và liên đới với những người túng quẫn nhất. Sự kết hiệp với Đức Kitô, Đấng là Thượng Tế và Chiên Con bị sát tế, là đặc trưng của sứ vụ và linh đạo của ngài, đã khiến ngài trở nên một con người chuyên chăm cầu nguyện sâu sắc và có lòng nhiệt thành tông đồ. Ngài nổi bật với đạo lý chính thống và lòng trung thành với Đức Giáo Hoàng. Ngài thường rao giảng trong các thành phố khác trong một nỗ lực nhằm xua tan sự thiếu hiểu biết về tôn giáo. Tại Vicobellignano, ngài thể hiện một tinh thần đại kết trong quan hệ với một cộng đồng Tin Lành, được đánh dấu bởi sự tôn trọng, sự thẳng thắn và tình yêu dành cho tất cả mọi người.
"Rúng động sâu sắc" trước "sự nghèo nàn về vật chất và luân lý của những phụ nữ trẻ", ngài đã thiết lập Dòng Nữ Tử Thuyết Giảng.
Cha Vincenzo Grossi qua đời tại Vicobellignano vào ngày 07 tháng 11 năm 1917. Ngài đã được tuyên phong chân phước tại Rôma vào ngày 1 tháng 11 năm 1975.
Chân Phước Louis Martin sinh tại Bourdeaux ngày 22 Tháng Tám 1823. Là một thanh niên có một đức tin sâu sắc và chuyên chăm cầu nguyện, có thời ông đã mong mỏi được dâng hiến cho Thiên Chúa trong nhà tế bần của Thánh Cả Bernard, nhưng gặp khó khăn trong việc học tiếng Latin, ông đành trở thành một thợ đồng hồ và định cư tại Alençon.
Chân Phước Zélie Guerin sinh tại Gandelain, gần Saint-Denis-sur Sarthon, vào ngày 23 Tháng 12 năm 1831. Cô đã làm việc như một người thợ thêu thùa tại Alençon. Cô cũng đã từng bị cuốn hút bởi đời sống các nữ tu, nhưng sức khỏe không ổn định của mình và những nhận xét tiêu cực của sơ Bề Trên Dòng Nữ Tử Bác Ái tại Alençon làm cô nản lòng.
Ơn Chúa quan phòng, Zélie gặp được Louis trên cầu Thánh Leonard: cô gặp được một thanh niên mà những đức tính cao quý của anh, cung cách kính cẩn và vẻ trang nghiêm của anh đã để lại cho cô một ấn tượng sâu sắc. Một giọng nói trong lặng lẽ thì thầm: "Đây là người đàn ông đã dành sẵn cho con". Họ đã kết hôn vài tháng sau đó tại nhà thờ Đức Bà thành Alençon, vào đêm 13 tháng 6, năm 1858.
Họ đã có niềm vui chào đón đến chín đứa con; bốn người đã chết trong thời thơ ấu, nhưng điều đó không dìm họ trong đau buồn cũng không làm suy yếu được đức tin sâu sắc của họ, họ vẫn kiên trì tham dự Thánh Lễ hàng ngày và có lòng sùng kính đặc biệt với Đức Trinh Nữ Maria. Người con gái cuối cùng của họ là Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Tiến Sĩ Hội Thánh. Án phong chân phước cho một người con gái khác của các ngài là chị Léonie (Sơ Francoise Therese, một nữ tu dòng Thăm Viếng) đã được bắt đầu vào ngày 02 tháng 7 năm nay.
Louis và Zélie Martin là những ví dụ tuyệt vời của tình yêu vợ chồng, của một gia đình Kitô giáo cần cù lo lắng cho người khác, hào phóng với người nghèo và được linh hứng từ một tinh thần truyền giáo mẫu mực, luôn sẵn sàng giúp đỡ các hoạt động của giáo xứ.
Zélie qua đời tại Alencon ngày 28 tháng 8 năm 1877 sau một thời gian dài bệnh tật. Louis chuyển đến Lisieux để bảo đảm một tương lai tốt hơn cho năm cô con gái của mình. Sau khi dâng lên Thiên Chúa tất cả những người con gái của mình, ông Cố, như người ta thường gọi ông, can đảm chịu đựng nhiều đau đớn vì một căn bệnh. Ông qua đời gần Evreux ngày 29 tháng 7 năm 1894. Louis và Zélie đã được phong chân phước vào ngày 19 tháng 10 năm 2008 tại Lisieux.
Văn phòng các nghi lễ Phụng Vụ của Đức Thánh Cha