Mỗi tôn giáo có những đặc ngữ riêng. Người
thuộc tôn giáo này khó hiểu được những đặc ngữ của tôn giáo khác. Ví dụ đa số
người người Công Giáo không hiểu rõ ý nghĩa các từ như Chánh Quả, Bát Nhã, Huệ,
Tuệ của Phật Giáo. Người Phật Giáo cũng không hiểu rõ ý nghiã các từ như Mân
Côi, Chầu Lượt, Mùa Át, Sinh Thì của Công Giáo. Ngoài ra, các tín hữu trong một
tôn giáo cũng không hiểu hết các từ ngữ trong tôn giáo của mình, nhất là các từ
về thần học.
Đối với Công
Giáo Việt Nam, một trong các từ khó hiểu và gây nhiều thắc mắc là từ Mân Côi –
Văn Côi – Môi Khôi – Mai Khôi – Mai Côi. Người ta thường nói: Kinh Mân Côi,
Tháng Mân Côi, Mầu Nhiệm Mân Côi, Chuỗi Môi Khôi, và ai cũng hiểu đại khái đó
là kinh Kính Mừng và tháng Mân Côi là tháng 10 kính Đức Mẹ Maria. Nhưng nếu có
hỏi: từ Mân Côi có ý nghĩa gì để được gọi là Kinh Kính Mừng thì không mấy ai
trả lời được. Ngoài ra tại sao Mân Côi lại còn gọi là Văn Khôi, Mai Khôi, Môi
Khôi. Vấn nạn đặt ra như vậy nên bài nghiên cứu sẽ đề cập đến các vấn
đề: (1) Kinh Mân Côi là gì? (2) Tại sao gọi là Kinh Mân Côi? (3) Mân
Côi, Mai Khôi, Môi Khôi, Văn Côi từ nào đúng?
1. KINH MÂN CÔI LÀ GÌ?
Theo định
nghĩa của các từ điển thần học Công Giáo, Kinh Mân Côi, tiếng La Tinh gọi là
Rosarium, Anh ngữ là Rosary, Hán tự là 玫
瑰 涇,
phát âm là [méiguijing], giọng Hán Việt đọc là Mai Côi Kinh, là bộ kinh nguyện
kính Đức Mẹ gồm 200 kinh chia làm từng chục. Mỗi chục gồm một kinh Lậy Cha, 10
kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh. Đồng thời mỗi chục kinh để tưởng nhớ một
mầu nhiệm liên hệ đến Chúa Giêsu hay Đức Mẹ Maria. Như vậy kinh Mân Côi là kinh
suy niệm 20 Mầu Nhiệm, được chia làm 4 Mầu Nhiệm chính mà đặc ngữ Công Giáo gọi
là Mùa như Mầu Nhiệm Mùa Vui, Mầu Nhiệm Mùa Thương, Mầu Nhiệm Mùa Mừng, và Mầu
Nhiệm Sự Sáng.
Mùa Vui suy
tư sự kiện Chúa Giáng Sinh. Mùa Thương tưởng nhớ đến việc Chúa chịu chết trên
Thập Giá. Mùa Mừng tưởng nhớ đến việc Chúa Phục Sinh. Mùa Sáng hay Mầu Nhiệm Sự
Sáng mới có từ năm 2002 dưới thời ĐGH Gioan Phaolô II, dành để suy niệm cuộc
đời Chúa Giêsu khi ra đi giảng đạo từ lúc chịu phép rửa trên sông Jordan tới
khi Chúa lập phép bí tích Thánh Thể. Theo tài liệu thì Kinh Mân Côi do Đức Mẹ truyền dạy thánh Đa Minh và Giáo Hội
cho chính thức phổ biến từ năm 1214.
2. TẠI SAO GỌI LÀ KINH MÂN CÔI?
Như chúng tôi
đã nói, kinh mà giáo dân Việt Nam gọi là Kinh Mân Côi thì La ngữ gọi là
Rosarium, Anh ngữ là Rosary, Hán ngữ là 玫
瑰 涇
được phát âm là [méiguijing]. Tất cả những từ ngữ trên, dù La ngữ, Anh ngữ, Hán
tự hay Hán Việt đều có nghĩa là Kinh Hoa Hồng. Theo Công Giáo Báck Khoa Từ
Điển, ấn bản Anh ngữ, sở dĩ gọi là Kinh Hoa Hồng là do tích truyện một thầy tu
khi đọc kinh Kính Mừng, Đức Mẹ đã lấy những nụ hoa hồng trên môi của thầy tu ấy
kết thành vòng hoa đội lên đầu mình. Corona, Chaplet, Garland trong tiếng Anh
có nghiã là Vòng Hoa Hồng hay Chuỗi Hạt, tương đương với ý nghĩa từ Rosarium
của Latinh.
Trong tiếng
Anh cổ, từ BEAD có nghiã là Hạt, Hột và cũng có nghĩa là Kinh (Prayers). Do vậy
tràng hạt tượng trưng cho tràng hoa hồng Đức Mẹ đội trên đầu được gọi là Tràng
Mân Côi, Chuỗi Mân Côi, hay Chuỗi Môi Khôi. Thần Học Từ Điển của người Công
Giáo Tàu gọi kinh này là 玫 瑰 涇
[méiguijing] tức Mai Côi Kinh có nghĩa là Kinh Hoa Hồng. Tóm lại, người Công
Giáo Việt Nam dùng từ Mân Côi là do bắt chước người Tàu nhưng đọc theo giọng
Hán Việt.
3. MÂN CÔI, MAI KHÔI, MÔI KHÔI, VĂN CÔI – TỪ
NÀO ĐÚNG?
Trong số các
từ Mân Côi, Mai Khôi, Môi Khôi, Văn Côi, người Công Giáo dùng nhiều nhất là từ
Mân Côi. Như thế Mân Côi có phải là từ đúng nhất không? Chúng ta hãy xét các từ
này qua từ điển của người không phải là Công Giáo và các từ điển hoặc sách vở
của người Công Giáo.
3.1
Từ điển không phải của người Công Giáo:
3.1.1 - Việt
Nam Từ Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức không có từ Mân Côi hay Mai Côi.
3.1.2 - Đại
Từ Điển Tiếng Việt của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo xuất bản năm 1999 tại Hà Nội
không có từ Mân Côi, Mai Côi, Văn Côi
3.1.3 - Hán
Việt Từ Điển của Đào Duy Anh định nghĩa: Mai Khôi 玫
瑰: Một thứ ngọc tốt và Mai Khôi
Hoa 玫 瑰
花: hoa hồng. Ông không liệt kê
từ Mân Côi hay Văn Côi.
3.1.4 - Hán
Việt Từ Điển của cụ Thiều Chửu đinh nghiã Mai Côi 玫
瑰: (1) cây hoa Hồng. (2) thứ
ngọc mầu đỏ.
3.1.5 - Từ
Điển Hán Việt Hiện Đại của Tô Cẩm Duy do Văn Hóa Thông Tin xuất bản năm 2006
viết 玫 瑰
[méigui]: Hoa hồng, cây hoa hồng.
3.1.6 - Từ
Điển Hán Việt của Ban Tu Thư Nghĩa Thục in năm 1999 định nghiã Mai Côi hay Mai
Khôi 玫 瑰:
hoa hồng. Từ điển này không có từ Mân Côi hay Văn Côi.
Tóm lại các
từ điển trên đây chỉ giải thích từ Mai Khôi là hoa hồng chứ không giải thích
Mai Khôi là chục kinh Kính Mừng.
3. 2.
Từ điển hay kinh sách của người Công Giáo:
3.2.1 Cuốn
sách Giáo Lý Công Giáo đầu tiên của Việt Nam là Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông
do nhà thừa sai Giêrônimo Mayorica soạn vào năm 1623 chưa biết tới từ Mân Côi
hay Hay Tràng Hạt nên Ngài đã phiên âm tiếng Bồ Đào Nha Rô Sa Riô (Rosario) và
Cô Rô Na (Corona) để chỉ kinh Mân Côi và tràng hạt
3.2.2. Tác
phẩm Thánh Giáo Kinh Nguyện có kinh cầu Đức Bà bằng Hán Văn mà ta quen gọi là
Kinh Cầu Chữ có 2 câu sau đây: (1) Huyền Nghiã Văn Côi. (2) Chí Thánh Văn Côi Chi
Hậu. Đến năm 1924, các giáo sĩ san định lại kinh sách Công Giáo và dịch hai câu
trên ra việt ngữ như sau:
- Huyền Nghĩa Văn Côi: Đức Bà Như Hoa Hường
Mầu Nhiệm Vậy.
- Chí Thánh Văn Côi Chi Hậu: Nữ Vương Truyền
Phép Rất Thánh Mân Côi.
3.2.3 Dictionarium
Anamitico Latinum của Đức Cha AJ. L. Taberd xuất bản năm 1838 không có từ Mân
Côi, Văn Côi, Mai Khôi.
3. 2.4 Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, ấn bản 1895-1896 có từ Môi Khôi và
được định nghiã là (1) hoa hồng. (2) loài ngọc qúy. Ông ghi chú thêm phải đọc
là Mai, không nên đọc là Môi. Tác giả là người Công Giáo nhưng không ghi thêm
Môi Khôi hay Mai Côi là tên một kinh của Công Giáo.
3. 2.5 Thuật
Ngữ Thần Học Anh Việt của Học Viện Đa Minh xuất bản năm 2002 định nghĩa Rosary
là Chuỗi Mân Côi do tiếng Latin Rosarium: tràng hoa hồng.
3. 2.6 Từ
Điển Công Giáo Anh Việt của Nguyễn Đình Diễn định nghiã Rosay là Kinh Mân Côi.
Tác giả chú thích thêm trong Việt ngữ, nguyên tự tiếng Hán, chính xác là Môi
Côi: Hoa hồng, sau bị đọc nhầm (sic) ra nhiều biến thái khác thành quen như Vân
Côi, Văn Côi, Môi Khôi, Mai Khôi.
3. 2.7 Từ
Điển Văn Học Việt Nam của Lm Trần Văn Kiệm in năm 2007 định nghiã các từ Môi
Khôi, Mân Côi, Môi Côi, Mai Khôi: Hoa Hồng.
3.3.
Từ Nào Đúng?
3.3.1 Mai,
Mân, Môi hay Văn từ nào đúng? Từ 玫
trong Hán tự phát âm là [mei]: Hán Việt đọc là Mai hay Mân nhưng Mai là từ đúng
nhất. Từ điển của Đào Duy Anh, của Ban Tu Thư Nghiã Thục, của Huỳnh Tịnh Paulus
Của đều chỉ ghi từ Mai. Còn Mân hay Môi chỉ là cách phát âm khác, của Mai. Từ
điển của LM Trần Văn Kiệm đều viết Mai hay Mân là 玫.
Bô Khang Hy Tự Điển ghi Mai và Môi đồng âm. Ngoài ra theo Hán Việt Từ Điển
Trích Dẫn thì thì Mân Côi hay Văn Côi được viết như nhau 玫瑰. Có nghiã là hoa hồng và đá
ngọc. Từ điển này cũng viết dùng Văn Côi để chỉ sợi vân của ngọc.
Tóm lại, theo
các từ điển, từ Mai Côi là đúng nhất.
Các từ Mân, Môi và Văn chỉ là âm khác của Mai.
3.3.2 Côi và
Khôi từ nào đúng? Theo nhiều từ điển như Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn, Từ Điển
Hán Việt của Ban Tu Thư Nghiã Thục, Từ Điển Văn Học của LM Trần Văn Kiệm từ 瑰 [gui] Hán Việt đọc là Côi có
nghiã là Ngọc, là Đá Qúy, và Côi cũng được phát âm là Khôi.
4. KẾT LUẬN
Dựa trên các
từ điển Hán Việt được trích dẫn trên, từ Mai Côi là đúng nhất. Các từ khác Mân
Côi, Môi Côi, Môi Khôi hay Văn Khôi chỉ là âm khác của Mai và Côi. Như vậy
không thể nói chỉ có một từ Môi Khôi là đúng, các từ khác là đọc nhầm. Kinh
sách Công Giáo lấy từ Mai Côi hay Mân Côi có nghiã là hoa hồng, không phải là
ngọc qúy, để chỉ chục kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh vì theo tích truyện
nói ở trên, Đức Mẹ đã lấy những đoá hoa hồng trên miệng của một tu sĩ đang đọc
kinh kính mừng kính Đức Me để kết thành tràng hoa hay triều thiên đội trên đầu.
Sở dĩ ít người hiểu được từ Mân Côi vì không ai nói hoa hồng là hoa mân côi.
Chỉ có người Công Giáo dùng từ Mân Côi hay tràng hoa Mân Côi với ý nghiã bóng
là kinh kính Đức Mẹ.
NGUYỄN LONG THAO