Phút cảm nhận Tin Mừng ngày 24/4/2019
Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su đến gần và cùng đi với họ. (Lc 24,15).
Hai môn đệ chắc là buồn bã lắm khi Thầy mình đã nghỉ yên trong huyệt đá, với các ông; "thế là hết". Các ông có lẽ đang trên đường về nhà, về với cuộc sống thường ngày như là lúc các ông chưa theo Thầy Giêsu.
Không! Thầy Giêsu không bỏ rơi các ông, Thầy thương các ông lắm, thế nên Thầy đã (nhập vai) một người đi đường để trò chuyện xem các ông nghĩ gì, xem sự hiểu biết cùng đức tin của các ông thế nào. Quả nhiên, đức tin của các ông yếu kém thật. Vì thế, Đức Giêsu đã phải giải thích cho các ông ngọn nguồn Ơn Cứu Chuộc bắt đầu từ thời ông Môi-sen cho đến các thời tiên tri sau này. Các ông đã lắng nghe và nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh, vì chỉ có Ngài mới làm được việc này.
Lạy Chúa. Đã nhiều lần chúng con đánh mất đức tin vì chúng con không học hỏi Lời Chúa cho đến nơi, đến chốn. Xin cho chúng con siêng năng đọc và học Lời Chúa một cách thành tâm. Ðể Lời Chúa hướng dẫn, chúng con luôn nhận ra Chúa đang sống đồng hành với chúng con. Nhờ đó cuộc sống chúng con là lời loan báo sự phục sinh vinh quang của Chúa. Amen.
24-04 Thánh Fidelis Sigmaringe
(1577-1622)
Nếu có người nghèo cần đến quần áo, Thánh Fidelis thường lấy ngay quần áo của mình đang mặc mà chia sẻ cho họ. Sự hoàn toàn độ lượng là đặc tính của cuộc đời thánh nhân.
Sinh năm 1577 trong một gia đình giầu có ở Sigmaringen, Hohenzollern, nước Đức. Thánh Fidelis có tên gọi là Mark Rey, ngay từ nhỏ rõ ràng ngài đã có những khả năng đặc biệt. Sau khi được vinh dự nhận bằng tiến sĩ triết và luật tại Ðại Học Freeburgh, Mark Rey cùng với ba người bạn đi khắp Âu Châu trong vòng sáu năm.
Ngài hành nghề luật sư, và các thân chủ đều mến mộ sự khôn ngoan và công chính của ngài. Nhưng dần dà ngài cảm thấy ghê tởm sự thối nát trong giới đồng nghiệp, và khi được hối lộ để kéo dài một vụ kiện ngài đã quyết định đi tu, gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Fidelis. Tài sản của ngài được chia cho người nghèo và nhà dòng.
Với quyết tâm rao giảng cho mọi người biết về đức tin chân thật, sau khi thụ phong linh mục, Cha Fidelis được phép hoạt động truyền giáo cho người Tin Lành, đó là một công việc đầy nguy hiểm trong thời ấy. Ngài chuẩn bị cho sứ vụ này bằng việc học hỏi, viết lách, cầu nguyện và hãm mình. Với những lời đầy nhiệt huyết ngài bài bác lạc thuyết của Calvin và Zwingli ở Ái Nhĩ Lan. Nhiều người Tin Lành cũng như người Công Giáo sa ngã đã trở lại với đức tin Công Giáo.
Sau đó Cha Fidelis làm Giám Ðốc của một tu viện và là nguồn khai sáng cho các tu sĩ với tinh thần chiêm niệm luôn bao trùm nhà dòng. Chính ngài và các thầy chăm sóc các quân nhân về thể xác cũng như tinh thần khiến các sĩ quan Tin Lành tức giận.
Sự liên lỉ cầu nguyện của Thánh Fidelis đã giữ ngài luôn trung thành với Thiên Chúa và không nhượng bộ đối với sự lãnh đạm và thờ ơ. Người ta thường nghe ngài nói, “Khốn cho tôi, nếu tôi chỉ là một người lính thiếu tận tâm phục vụ vị Thủ Lãnh đội mão gai.” Sự cầu nguyện đối với sự thờ ơ, và sự lưu tâm đối với người nghèo đã khiến thánh nhân trở nên một gương mẫu có giá trị cho ngày nay. Giáo Hội thường kêu gọi chúng ta hãy noi gương người “luật sư của người nghèo” này bằng cách chia sẻ tài năng chúng ta với những người kém may mắn, và hoạt động cho sự công bằng của thế giới.
Có lần ngài nói với một linh mục bạn về hai điều ước của ngài; một là được ơn không bao giờ phạm tội trọng, và hai là được chết vì Ðức Tin. Thiên Chúa đã nhận lời ngài.
Trong ba năm, ngài được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XV sai đến Thetia hoạt động và ngài hoán cải rất nhiều người. Các giáo sĩ theo phái Calvin (*) xách động dân chúng, và vào ngày 24 tháng 4 năm 1622 ở Grusch, Grisons, Ái Nhĩ Lan, đó là lần rao giảng chót của Cha Fidelis. Khi ngài vừa lên toà giảng để nói về “Một Thiên Chúa, Một Ðức Tin, Một Phép Rửa“, đám đông la ó phản đối, họ lôi ngài ra khỏi nhà thờ và dùng gậy gộc đánh đập và dùng gươm đâm chết ngài.
Đức Giáo Hoàng Benedict XIII đã tôn phong Chân Phước cho Cha Fidelis ngày 24 tháng 3 năm 1729. Mười bảy năm sau, Đức Giáo Hoàng Benedict XIV nâng Chân Phước Fidelis ở Sigmaringen lên hàng hiển thánh tử đạo ngày 29 tháng 6 năm 1749.