Thứ Hai, 1 tháng 4, 2019

Phút cảm nhận Tin Mứng ngày 1/4/2019

Filled under:

Phút cảm nhận Tin Mứng ngày 1/4/2019
Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về (Ga 4, 43-54).
Từ xưa đến nay, những người có quyền, có tiền thường cậy dựa vào sức mình mà "coi trời bằng vung". Không quan tâm đến những diễn biến đạo đức đang xảy ra hàng ngày hàng giờ, nhất là những vấn đề Nước Trời, hay sự sống đời sau. Từ đó cũng không coi trọng sự sống người khác, nhất là những người cùng khổ.
Viên sĩ quan triều đình trong tin mừng hôm nay là người có uy lực lớn trong quân đội, nhưng không vì thế mà bỏ bê gia đình. Ông có vợ con và hôm nay con trai ông bị bệnh nặng, thay vì tìm đến các lương y danh tiếng, ông lại tìm đến Đức Giêsu, ông tin Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa vì ông đã nghe danh từ khắp các miền Galilêa và hôm nay là dịp để ông gặp Ngài. Gặp Ngài không phải vì tò mò nhưng vì cần chữa bệnh cho con ông đang "Thập tử nhất sinh".
Đức Giêsu quả là ngạc nhiên trước một niềm tin quá mạnh của viên chức này. Nơi ông không có một chút gì là quyền lực và gian tham. Bởi thế, Đức Giêsu đã chữa cho con trai ông được mạnh khỏe tức thì.
Lạy Chúa, Chúa đã ban ơn cứu độ cho những ai tin cậy vào Chúa. Xin củng cố niềm tin của chúng con, để mọi lời nói cùng việc làm của chúng con trở nên dấu chỉ sống động cho tình thương và sự hiện diện của Chúa. Amen.


THÁNH VALÊRY TU VIỆN TRƯỞNG
(+619)
Thánh Valêry xuất thân tự một gia đình bần cố nông thuộc tỉnh Auvergnia. Vì gia cảnh nghèo túng, nên buổi thiếu thời Valêry phải đi chăn chiên đỡ cha mẹ chứ không được theo học như các trẻ em cùng tuổi. Nhưng với chí ham học, Valêry lợi dụng những thời giờ nhàn rỗi để nhờ các bạn dạy đọc và viết hầu có thể đọc và hiểu Kinh Thánh, nhất là Thánh Vịnh.
Tới tuổi trưởng thành, Valêry theo cậu vào giúp việc trong một tu viện thuộc miền Issoiria. Vì quá mến bầu không khí đạo đức và cảnh sống nơi tu viện, Valêry năn nỉ xin cha bề trên cho nhập dòng. Nhận thấy Valêry có một ơn kêu gọi đặc biệt, cha bề trên liền đồng ý. Thế là chỉ trong một thời gian ngắn, Valêry được mặc áo dòng và đời sống tu trì của thầy đã đáng làm tấm gương sáng ngời cho các bạn dòng. Nhưng thầy Valêry hằng nuôi chí tiến thủ là tiến cao mãi trên đường trọn lành. Không bao lâu sau người ta đều biết thầy là người nhân đức, và ai nấy đều mong muốn được tiếp xúc để thầy truyền thông lửa mến Chúa cho. Lần kia một lãnh chúa quyền thế quý danh là Bobon đến xin đàm đạo với thầy Valêry. Sau cuộc đàm đạo thân mật, lãnh chúa nhất quyết từ giã trần tục để được sống theo gương mẫu của thầy Valêry. Hai thầy trò xin phép bề trên đến tu tại tu viện của Côlômbanô. Tại đây thầy Valêry được cử vào ban canh tác. Và đó cũng là lúc Thiên Chúa muốn biểu dương lòng khiêm tốn và tinh thần đức tin của người con hiếu thảo. Năm đó, đồng ruộng và vườn tược của tu viện bị sâu bọ cắn phá tàn rụi. Nhưng lạ thay chỉ riêng phần đất thầy Valêry canh tác vẫn giữ được vẻ tươi tốt khác thường và không thấy bóng một con sâu nào. Vì lòng khiêm tốn thầy Valêry chỉ nghĩ rằng đó là nhờ công đức của cả tu viện, chứ không phải do công lao của thầy. Nhưng cha bề trên lại nghĩ khác: ngài cho việc lạ lùng đó là do đức của thầy Valêry; thấy thế ngài liền cho Valêry khấn trọn đời.
Người ta không rõ thầy Valêry sống dưới quyền hướng dẫn khôn ngoan của tu viện trưởng Côlômbanô trong bao lâu; chỉ biết rằng thầy còn ở lại Luyxơi (Luxeuil) cho tới ngày vị tu viện trưởng khả kính của thầy phải đi lưu đầy ở một hoang đảo xa xôi. Người ta kể lại rằng khi cha con chia tay, thầy Valêry khóc lóc đòi đi theo tu viện trưởng Côlômbanô nhưng, vì lệnh vua không cho và vì vâng lời tu viện trưởng, thầy đành ngậm ngùi ở lại!
Cha Eustariô được chọn làm bề trên thay thế Côlômbanô. Ngài cử hai thầy Valêry và Vanđôlianô đi truyền giáo ở một miền hẻo lánh xa xôi. Nhưng chẳng may chiến tranh bùng nổ làm gián đoạn chương trình truyền giáo của hai người. Tu viện lúc đó cũng phải trải qua những ngày đen tối; giặc giã nổi lên cướp phá tứ bề, nhưng nhờ tài ngoại giao và lòng quả cảm của thầy Valêry, nhà dòng nhiều lần đã được thoát nạn.
Chiến tranh qua, cha tu viện trưởng Eustariô có việc phải đi công cán nơi xa, ngài đã giao quyền điều khiển tu viện cho thầy Valêry; lúc này thầy đã tỏ ra lành nghề trong việc dẫn dắt tu viện. Cho đến khi cha tu viện trưởng Eustariô trở về thầy mới lại có thể bắt đầu công cuộc truyền giáo đã dự tính. Hai thầy đi khắp nước, từ tỉnh này tới tỉnh khác để rao giảng lời Chúa và nhất là đem các chiên lạc về đàn. Được vua Clotaciô cho phép, hai thầy cư trú tại miền Nêutri (Neustrie) rồi tiến thẳng về Amien. Vừa đặt chân tới Gamarca hai chiến sĩ truyền giáo được tin vị lãnh chúa địa phương vừa lên án tử hình một phạm nhân, và người ta đang sửa soạn điệu hắn đi xử. Thầy Valêry vội chạy tới pháp trường, nhưng đã muộn vì phạm nhân vừa bị giết xong. Dầu vậy thầy vẫn điềm nhiên tiến đến đặt tay trên tử thi của người mệnh bạc. Lý hình tìm cách ngăn cản, nhưng thầy cứ bình tĩnh cắt giây thừng buộc cổ phạm nhân rồi ôm xác chết trong tay, thầy cầu nguyện sốt sắng. Mọi người chăm chú nhìn từng cử chỉ nhỏ nhặt của thầy. Và kìa lạ thay, tử thi dần dần cử động và đứng dậy đi lại như thường. Mọi người đều bỡ ngỡ kinh hoàng. Tuy nhiên lãnh chúa Sigôbarđô vẫn nhất quyết không trả lại tự do cho tên tử tù; ông còn truyền thắt cổ hắn lần thứ hai. Thầy Valêry phản đối vị lãnh chúa khát máu đó bằng những lời lẽ từ tốn: "Thưa ngài, chính ngài đã tuyên án tử hình phạm nhân và theo lệnh ngài hắn đã chết rồi. Vậy nếu như tên tử tù đây sống lại được là nhờ ở quyền phép và lòng từ bi vô bờ bến của Thiên Chúa. Thế nên ngài không thể giết hắn một lần nữa; nếu ngài định giết hắn thì xin hãy giết cả tôi nữa. Nếu ngài không nghe theo đề nghị của tôi, thì xin ngài nhớ cho rằng Thiên Chúa nhân từ không bao giờ từ chối những ai kêu cầu danh Người. Người sẽ hộ giúp chúng tôi vì chúng tôi chiến đấu cho luật pháp của Người". Lãnh chúa Sigôbarđô suy nghĩ một lát rồi truyền lệnh trả tự do cho tên tử tù.
Hai chiến sĩ Phúc âm còn tiếp tục lên đường truyền giáo. Đi đến đâu hai người cũng được dân chúng tiếp đón nồng hậu. Đặc biệt có bà Bertilla sẵn lòng giúp đỡ hai thầy trong mọi sự. Bà đã xin thầy Valêry cho bà được hân hạnh chôn xác thầy nếu như chẳng may thầy chết trước bà. Thầy Valêry chỉ trả lời: "Mọi sự đều tuỳ thuộc ở Thiên Chúa, tôi hoàn toàn phó thác nơi Người; tôi chỉ biết tuân theo thánh ý chúa và nguyện làm mọi sự vì vinh danh Người". Hai thầy Vanđôlianô và Valêry tìm nơi thanh vắng để dễ sống đời suy niệm. Đức Giám mục địa phận Amien đã cho hai thầy một khu đất tại Lêucônô để lập tu viện. Nhiều thanh niên trong vùng cảm mến nhân đức thầy đã tới xin thụ huấn. Thầy Valêry đã mở rộng cửa và niềm nở tiếp đón những tâm hồn đầy thiện chí ấy. Cộng đồng Leucônô dần dà biến thành một tu viện với những quy luật riêng.
Bề trên Valêry muốn biến tu viện của ngài thành một nơi tịch liêu hoàn toàn. Chính ngài đã sống trong một phòng riêng biệt để suy niệm.
Nhưng trong nơi thanh vắng đó, Chúa đã làm nhiều phép lạ để làm sáng tỏ đời sống thánh thiện của thánh nhân. Một lần kia có người bị bệnh tê liệt tới xin thánh Valêry cầu nguyện và ông đã được lành bệnh tức khắc. Để đền ơn thánh nhân, ông đã xin gia nhập dòng và đến sau được bầu làm phó giám đốc tu viện.
Lần khác, một bệnh nhân kia tới xin ngài chữa bệnh. Sau khi làm dấu thánh giá trên mình bệnh nhân, ngài nói với ông: "Ông cứ việc trở về nhà, nhưng đừng uống thuốc men chi cả, ngay đến chén thuốc mà vợ ông đang sắc cho ông cũng vậy. Nếu ông tuân theo lời tôi, ông sẽ được khỏi bệnh, nhưng ông sẽ phải mang một dấu hiệu khác để ghi nhớ phép lạ đó". Với một lòng tin tưởng mạnh mẽ, khi trở về nhà bệnh nhân đó nhất định không uống một hớp thuốc nào, ngay cả thang thuốc vợ ông đang sắc cho ông. Ông đã được khỏi bệnh thật. Nhưng để ghi nhớ phép lạ đặc biệt đó, ông đã bị chột mất một mắt!
Với lòng nhiệt thành khác thường thánh Valêry cố gắng tẩy trừ những mê tín và lầm lạc của quần chúng. Ngày kia thánh nhân đã chặt một cây sồi to lớn mà dân chúng tin rằng có thần thánh ngự trị ở đó, nên đã lập bàn thờ cúng vái. Đám lương dân dữ tợn túm lại định giết ngài. Nhưng khi nghe tiếng thánh nhân nói oai nghiêm như có sức thôi miên, bọn người hung dữ run lên sợ sệt. Thừa cơ hội đó thánh nhân khuyên họ trở lại. Cuối cùng tâm hồn họ đã mở ra để đón nhận Tin mừng Phúc âm.
Đôi lần thánh nhân phải đương đầu với bọn người cứng cỏi muốn phá rối công cuộc truyền giáo của ngài. Một chiều kia thánh nhân đi từ Caldisa về tu viện. Ngài phải rẽ vào một làng xin ngủ một đêm vì trời đã gần tối, thêm vào đó cảnh chiều đông lạnh lẽo, tuyết rơi đầy đường... Rủi thay! Thánh nhân chỉ nhận được những lời nguyền rủa chua cay.
Ngài quở trách họ nặng lời, nhưng vẫn không ai coi sao, họ lại còn chửi bới nhiều lời thậm tệ hơn nữa. Cuối cùng ngài phải nghiêm nghị nói với họ: "Các bạn thân mến, các bạn chửi mắng tôi quá, buộc lòng tôi không cần dến sự giúp đỡ của các bạn nữa". Nói rồi ngài giũ giầy và đi thẳng. Chúa công thẳng liền ra tay phạt nhãn tiền hai người đàn anh trong họ, một người bị mù, còn một người mắc phải chứng bệnh nan trị. Nhận thấy tay công thẳng Chúa đã tỏ ra trong công việc này, họ hối hận mời thánh nhân trở lại, nhưng ngài đã quay gót đi xa.
Trong suốt cuộc đời truyền giáo, thánh Valêry đã phải trải qua nhiều khó khăn như thế. Nhưng cũng chính trong những khó khăn ấy, ngài đã để lộ những đức tính cao quý của một bậc thánh. Ngài lăn lộn suốt ngày đêm để rao giảng tin mừng Phúc âm. Có những lúc nhọc nhằn khó chịu, nhưng trên khuôn mặt ngài lúc nào cũng lộ vẻ vui tươi hiền hòa.
Ngài tiếp đãi mọi người với tình âu yếm như cha với con. Những người nghèo khổ được cha thương yêu săn sóc cách riêng. Với những ai vì yếu đuối mà lỗi luật ngài cư xử khoan hồng khiến người có lỗi cảm động và sửa mình…
Sau sáu năm vất vả làm việc truyền giáo và trông coi tu viện, ngày kia thánh Valêry linh cảm thấy giờ phút chấm dứt cuộc đời chạy đua ở trần gian đã gần tới. Sáng chủ nhật hôm đó, ngài trở về tu viện và đi thẳng tới chỗ vẫn quen lui tới cầu nguyện. Nơi đó sau này người ta đã xây cất một nhà nguyện mệnh danh là nguyện đường thánh Valêry.
Sau giây phút cầu nguyện sốt sắng, thánh nhân nói với đoàn môn đệ đang đứng vây quanh: "Xin anh em hãy chôn xác tôi ở đây". Môn đệ hiểu ngay ngày từ biệt cõi trần của ngài đã gần tới. Quả thế, ít lâu sau thánh nhân đã êm ái tắt nghỉ ngày 01 tháng 04 năm 619. Các môn đệ đã trung thành với lời ngài xin và táng xác ngài tại chính nơi ngài đã chỉ. Để ghi nhớ công ơn và sự nghiệp của thánh nhân, sau này môn đệ và dân chúng địa phương lại khởi công xây cất một nguyện đường ngay trên chính nơi ngài đã an nghỉ.