Phút cảm nhận Tin Mừng ngày 19-1-2020.
"Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian"(Ga 1, 29-34).
Gioan khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua sông Giodan, nơi ông làm phép rửa, ông đã lớn tiếng nói với những người chung quanh rằng: "Đây chiên Thiên Chúa chính Ngài là con Thiên Chúa".
Gioan khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua sông Giodan, nơi ông làm phép rửa, ông đã lớn tiếng nói với những người chung quanh rằng: "Đây chiên Thiên Chúa chính Ngài là con Thiên Chúa".
Người Do Thái trong ngày lễ Vượt qua, người ta thường bắt một con chiên trong sạch để làm của lễ hy tế. Con chiên được dẫn tới bàn thờ, mọi người giơ cao tay đổ hết mọi tội mình lên đầu con chiên, rồi nhổ lông, xé thịt nó. Nó không mở miệng kêu một tiếng. Người ta thiêu sinh nó làm lễ dâng lên Thiên Chúa, xin Thiên Chúa xóa hết tội mình.
Giờ đây, Gioan làm chứng về Đức Giêsu: “Chính Ngài là con Thiên Chúa vì Ngài có trước tôi từ đời đời, dù Ngài sinh ra ở trần gian sau tôi. Hơn nữa tôi đã thấy Thánh Linh ngự trên Ngài”, Gioan đã làm chứng những lời cam đoan đó, không chỉ bằng lời nói suông, mà còn bằng việc làm, bằng cuộc sống và bằng hy sinh cả mạng sống của ông.
Con Thiên Chúa đã làm người, Ngài đón nhận trọn vẹn thân phận con người tội lỗi. Ngài gánh vác lấy tất cả tội lỗi của nhân loại làm tội lỗi của mình. Ngài lấy chính bản thân Ngài, để đền bù tất cả tội lỗi đó thay cho nhân loại. Là Con Chiên trong sạch, Ngài chấp nhận trở thành “con chiên gánh tội trần gian”.
Lạy Chúa, Chúa đã đổ máu trên đồi canve vì tội chúng con, nhờ Máu Cực Thánh ấy, chúng con đã được trở nên vô giá. Xin cho chúng con biết quý trọng bản thân mình và anh em mình. Chúng con đã trở nên giá trị trước mặt Chúa. Xin cho chúng con luôn vang trên môi lời tạ ơn. Vâng, lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn. Amen.
Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Thánh Joseph Sebastian Pelczar được sinh vào trần gian ngày 17/1/1842 ở một tỉnh nhỏ Korczyna ở miền tây nam nước Balan. Ngài được dưỡng dục theo truyền thống đạo đức Balan. Sau hai năm học vỡ lòng ở địa phương, Ngài được cha mẹ gửi học ở Rzeszow. Ngay từ hồi còn nhỏ Ngài đã biết dấn thân phụng sự Thiên Chúa, như Ngài viết: “Những thứ lý tưởng trần gian qua đi. Tôi thấy được lý tưởng của đời sống trong sự hy sinh, và lý tưởng của hy sinh nơi thiên chức linh mục”. Sau khi học hết lớp sáu, Ngài đã nhập tiểu chủng viện. Năm 1860 Ngài đã bắt đầu thần học ở đại chủng viện Przemysl.
Ðược chịu chức linh mục ngày 17/7/1864,
Trong việc nỗ lực sống trọn lý tưởng của “một vị linh mục Balan dấn thân cho dân chúng”, Ngài không chỉ hoạt động về văn học, mà còn dấn thân tham gia vào những sinh hoạt xã hội và bác ái khác, như Hội Thánh Vinhsơn Phaolô và Hội Giáo Dục Con Người. Ðối với Hội Giáo Dục Con Người, Ngài đã làm chủ tịch 16 năm. Trong thời gian này, Ngài đã thiết lập cả hằng trăm thư viện, thuyết giảng vô số lần, phát hành và phổ biến hơn một ngàn cuốn sách, và mở trường dạy cho thành phần tôi tớ. Vào năm 1891, Ngài lập Hội Huynh Ðệ Ðức Bà, Nữ Vương Vinh Hiển Balan. Ngoài những hoạt động về tôn giáo, Hội Huynh Ðệ này được thành lập để chăm sóc người nghèo, mồ côi, những người làm công trả nợ và những người làm tôi, nhất là những người bệnh tật và thất nghiệp.
Ngài đã thấy rằng những vấn đề xẩy ra vào thời điểm của mình thực sự là cơ hội để thấy được ý muốn của Thiên Chúa. Vào năm 1894, Ngài đã lập Dòng Chị Em Tôi Tớ Trái Tim Rất Thánh Chúa Giêsu ở Krakow, với mục đích truyền bá Vương Quốc yêu thương của Trái Tim Chúa Giêsu. Ngài mong muốn Chị Em nữ tu phải trở thành dấu hiệu và dụng cụ của tình yêu này đối với những người con gái, những người bệnh tật cũng như tất cả những ai cần thiết.
Năm năm sau, tức vào năm 1899, Ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Przemysl. Sau đó, vào năm 1900, sau khi Giám Mục L. Solecki qua đời, Ngài được chỉ định thay thế. Ngài đã giữ chức vụ chủ chăn nhân lành của giáo phận Przemysl 25 năm. Mặc dù sức khỏe yếu kém, Ngài thường đến viếng thăm các giáo xứ, đồng thời cũng lưu ý đến cả việc huấn luyện về luân lý và kiến thức cho hàng giáo sĩ. Ngài làm gương trong việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa và Mẹ Maria. Ngài chuyên chú đến việc tôn sùng Thánh Thể và khuyến khích làm việc này. Nhờ nỗ lực của Ngài, một số nhà thờ và nguyện đường đã được xây cất và nhiều nhà thờ đã được tái thiết. Bất chấp những hoàn cảnh bất lợi về chính trị bấy giờ, Ngài cũng triệu tập ba công đồng giáo phận. Ngài nhấn mạnh đến việc cần phải áp dụng giáo thuyết về xã hội của Ðức Lêô XIII.
Ngài đã hoàn tất ý muốn của Thiên Chúa cho dù có nhiều trở ngại, và đã qua đời trong hương thơm thánh đức vào đêm 28/3/1924. Ngài được ÐTC Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 2/6/1991 ở Rzeszow Balan. Thi thể của Ngài đang yên nghỉ trong Vương Cung Thánh Ðường giáo phận Przemysl. Lễ kính Ngài được cử hành vào ngày 19/1 hằng năm.