Cuộc đời như một bản nhạc, cũng có thể ví như
một bản hợp xướng, với các cung bậc khác nhau, tiết tấu khác nhau, hòa quyện
trong những hợp âm khác nhau – lúc trưởng, lúc thứ, lúc thăng, lúc giáng, lúc
tăng, lúc giảm, lúc ngân vang, lúc tĩnh lặng, lúc vui, lúc buồn,... Đa dạng, đa
âm và đa sắc màu.
Mỗi dịp
hân hoan mừng đón lễ Giáng Sinh, có lẽ không ai xa lạ với bản thánh ca bất hủ “Still
Nacht! Heilige Nacht!” (Đêm Tĩnh Lặng, Đêm Lành Thánh) do NS Franz Xaver Gruber
viết năm 1818, lời Việt có tựa đề “Đêm Thánh Vô Cùng” do NS Hùng Lân biên soạn:
“Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng,
đất với trời, xe chữ đồng. Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ, canh khuya
giáng sinh trong chốn hang lừa. Ơn châu báu không bờ bến, biết tìm kiếm của chi
đền!”.
Đêm giáng
sinh là đêm thánh vô cùng, đêm cực thánh, vì là đêm Con Chúa nhập thế và nhập
thể, Ngài mặc xác phàm và ở với nhân loại: Thiên Chúa ở cùng chúng ta –
Emmanuel. Ôi vui mừng và hạnh phúc biết bao! Niềm vui khôn tả khi người dưới
được người trên đến thăm; thần dân vô cùng hạnh phúc khi được nhà Vua ghé vào
“tệ xá” của mình; dân tình khốn khổ vì thấp cổ bé miệng sẽ trở nên sung sướng
khi được tổng thống lưu ý;… Thế thì không còn niềm vui sướng nào có thể so sánh
khi được Thiên Chúa đến với chúng ta, không chỉ thăm mà còn ở với chúng ta.
Giáo hội
quen dùng tán tụng ca của các thiên thần hát vang trong đêm Con Chúa sinh tại
Bêlem: Gloria in
excelsis Deo (Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời).
Ngôn ngữ loài người không thể đủ để diễn tả niềm hạnh phúc tuyệt đỉnh này! Nhà
soạn nhạc Johann Sebastian Bach đã sáng tác bản nhạc tôn giáo “Gloria” vào năm 1733,
và khoảng năm 1745, ông viết bản “Gloria in
excelsis Deo” (*) cũng theo “phong cách” như bản
“Gloria”. Bản “Gloria in excelsis Deo” đã được cất tiếng hát vang vào ngày lễ
Giáng Sinh năm 1745 để mừng đón hòa bình sau những đợt chiến tranh Salesia giữa
Áo quốc và Prussia.
Từ ngàn
xưa, ngôn sứ Isaia nói: “Dân đang lần bước
giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng
tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Tại sao như vây? Bởi vì
nhiều lý do, và được ngôn sứ Isaia liệt kê: “Chúa
đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước
nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia
nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và
ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian.
Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu,
làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được
ban tặng cho ta” (Is 9:2-5a).
Trẻ Thơ
đó không là một con người bình thường, mà rất đặc biệt, vì đó chính là Con
Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng xuất hiện để giải thoát nhân loại
khỏi tội lỗi và quyền lực của bóng tối. Đêm nay là Đêm Bình An, là Đêm Giao Hòa
Đất Trời, là Giờ Hạnh Phúc, là Ngày Độc Lập, là Ngày Quốc Khánh Tâm Linh của cả
nhân loại – kể cả những người chưa tin nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và
là Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu
Thế ra sao? Ngài là Vua Công Lý, đầy uy lực và mang nhiều danh hiệu: “Người gánh vác quyền bính trên vai, danh
hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ
Lãnh hoà bình” (Is 9:5b). Không chỉ dừng lại ở mức độ đó, mọi sự vẫn không
ngừng tiếp diễn: “Người sẽ mở rộng quyền
bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít.
Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công
minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo
binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6).
Kể từ đêm
nay, đêm Đấng Cứu Thế giáng sinh cho chúng ta, niềm vui nối tiếp nỗi mừng vì
chúng ta được cận kề với Đức Kitô, Thiên Chúa của chúng ta. Vì thế, chúng ta
phải thể hiện niềm vui sướng đó bằng cách “reo
hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời
cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:2). Có thể có người rất
muốn biết lý do cho hai năm rõ mười. Và đây là lý do: “Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả, là Đại Vương trổi vượt chư thần, nắm
trong tay bao vực sâu lòng đất, giữ chủ quyền muôn ngọn núi vút cao. Đại dương
Chúa đã tạo thành là của Chúa, lục địa do tay Người nhào nắn cũng thuộc về
Người”(Tv 95:3-5). Tất cả là của
Ngài, nhưng Ngài giao cho chúng ta quản lý. Chúng ta thật là diễm phúc!
Thật vậy,
vì không giấu được niềm vui quá lớn lao nên tác giả Thánh Vịnh đã kêu gọi mọi
người: “Hãy vào đây, ta cúi mình phủ
phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên
Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv
95:6-7). Được tôn thờ Ngài là đại phúc đối với chúng ta. Việc chúng ta ca tụng
Ngài chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng lại sinh ích lợi và kéo hồng ân xuống cho
chính chúng ta. Chúc tụng Chúa trong mọi hoàn cảnh là chứng tỏ lòng tín thác
vào Lòng Chúa Thương Xót, nhất là trong Năm Thánh Thương Xót này.
Thật là
rạch ròi và đầy niềm tín thác khi Thánh Phaolô xác nhận: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi
người” (Tt 2:11). Tuy nhiên, “ân sủng
đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống
chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:12). Thánh Phaolô
giải thích cặn kẽ: “Sở dĩ như vậy, là vì
chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là
Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng
ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính,
và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân
hăng say làm việc thiện” (Tt 2:14). Vấn đề là “hăng say làm việc thiện”,
vậy mới là sống tích cực, chứ không chỉ sống tiêu cực là “làm lành, lánh dữ”.
Thánh sử
Luca tường thuật đúng lịch sử: “Thời ấy,
hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ
Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ
thành Nadarét, miền Galilê, lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì
ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã
thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó thì
bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc
con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”
(Lc 2:1-7). Lịch sử là điều không thể chối cãi, Kinh Thánh là một trong
những cuốn sử quan trọng của nhân loại, đã được nghiên cứu nhiều và được dịch
ra các ngôn ngữ nhiều nhất thế giới.
Lời kể
ngắn gọn nhưng súc tích, chất chứa những chi tiết cốt lõi, mô tả cả một khoảng
thời gian dài, không gian mênh mông và biết bao nỗi cơ cực. Đường sá xa xôi,
trời lại tối và giá lạnh, tìm chỗ nghỉ đêm thì nơi nào cũng từ chối thẳng
thừng, không ai chút động lòng trắc ẩn – dù chỉ là thương hại. Cô Maria và Chú
Giuse khổ thật!
Tuy nhiên,
người ta thường nói rằng trong cái xui luôn có cái hên, cánh cửa này khép lại
thì có cánh cửa khác mở ra. Tại vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài
đồng và thức đêm canh giữ đàn súc vật. Bỗng dưng sứ thần Chúa xuất hiện ngay
bên họ, và vinh quang của Thiên Chúa chiếu toả sáng rực xung quanh, khiến họ
kinh sợ và hoảng hốt. Họ sợ đến chết đứng như Từ Hải luôn chứ nói chi tới hãi
hùng. Đang đêm tối đen như mực, đen thui như mõm chó, trăng không có, điện đóm
cũng không, thế mà bỗng dưng sáng chói hơn đèn cao áp, dù thời đó không hề có
“những đóm mắt hỏa châu”, mà họ chỉ là những trẻ mục đồng nghèo hèn và thất học
– như Việt Nam gọi là lũ trẻ chăn trâu hoặc chăn bò, thế thì hỏi sao không chết
đứng cho được chứ?
Thế nhưng
sứ thần đã động viên họ: “Anh em đừng sợ. Này, tôi báo cho anh em một tin mừng trọng
đại, cũng là
tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra
cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Các mục đồng chẳng đáng là “cái đinh gỉ” trước mặt người đời, thế mà họ
lại là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng. Họ quả là đại phúc! Điều đó
chứng tỏ Thiên Chúa rất thương xót người nghèo, Con Thiên Chúa đến để cứu thoát
họ và đòi lại công lý cho họ.
Trấn an
họ rồi, sứ thần còn “mách nước” cho họ: “Anh
em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinhbọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Rồi như để minh chứng và củng cố niềm tin cho họ, bỗng dưng muôn vàn
thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương”(Lc 2:14).
Hình như
văng vẳng tiếng bổng trầm và nhịp nhàng của Đức Mẹ đang nhẹ ru Hài Nhi Giêsu:
À ơi, Con hãy ngủ ngoan
Mai kia khôn lớn hiến thân cứu đời
Đêm nay Thánh Tử làm người
Danh Chúa rạng ngời, nhân loại
bình an
Đêm Giáng Sinh, đêm ngọt ngào những cung an bình của bản Tổng Phổ Kinh
Thánh được vang ngân khắp nơi, từ thôn quê tới thị thành, từ các ngõ hẻm tới
các đại lộ. Cung An Bình đó là quốc tế ngữ chuyển tải sứ điệp của Lòng Chúa
Thương Xót tới mọi người ở khắp mọi nơi, không phân biệt bất cứ thứ gì – màu
da, sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, giai cấp, địa vị,...
Lạy Thiên Chúa Cha, chúng con cảm
tạ Cha đã ban chính Ngôi Con đến thế gian để cứu độ chúng con. Lạy Chúa Thánh
Thần, chúng con cảm tạ Ngài đã thánh hóa và dẫn đường chỉ lối cho chúng con
nhận biết Hài Nhi sinh ra nơi hang lừa là Đấng Cứu Thế. Lạy Thánh Nhi Giêsu,
chúng con cảm tạ Ngài đã đến chung sống và chia ngọt sẻ bùi của kiếp người với
chúng con.
Lạy Đức Mẹ Maria và Đức Thánh
Giuse, chúng con cảm ơn nhị vị đã vâng lời Thiên Chúa mà chấp nhận mọi gian nan
để trao tặng Đấng Cứu Thế cho chúng con.
Nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng
con hưởng trọn Niềm Vui Giáng Sinh và Hồng Ân Cứu Độ. Chúng con cầu xin nhân
danh Thánh Tử Hài Đồng Giêsu, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Cả “Gloria” và “Gloria in excelsis Deo” đều được viết ở âm thể Si
Trưởng. Có thể nghe “Gloria in excelsis Deo” (BWV 191) của nhà soạn nhạc Johann
Sebastian Bach tại đây: