1. Mùa Chay là mùa gì?
Mùa Chay là thời lỳ gồm 40 ngày, dành cho việc chuẩn bị mừng lễ Chúa Phục Sinh và là thời kỳ cao điểm của các anh chị dự tòng chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Rửa tội trong ngày lễ Phục Sinh.
2. Người tín hữu sống Mùa Chay từ khi nào?
Bắt đầu từ thế kỷ thứ IV, người tín hữu đã bắt đầu sống Mùa Chay như là thời gian sám hối và đổi mới cho toàn Giáo Hội nhờ vào việc ăn chay và kiêng thịt. Việc làm này thực hiện một cách hiệu quả đối với các Giáo hội Đông Phương, còn đối với các Giáo Hội Tây Phương thì việc sám hối có phần nhẹ hơn, nhưng người tín hữu vẫn giữ chay theo tinh thần sám hối và hoán cải.
3. Tại sao lại có Mùa Chay trong Giáo Hội công giáo?
Hằng năm Giáo Hội liên kết bốn mươi ngày của Mùa Chay với mầu nhiệm của Chúa Giêsu trong sa mạc. (xem. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 540).
4. Thần Khí nào của Mùa Chay?
Đó như là một việc tĩnh tâm cộng đồng trong bốn mươi ngày mà Giáo Hội mời gọi các tín hữu noi theo gương Chúa Kitô trong thời gian Người ở sa mạc, để chuẩn bị cho việc cử hành trọng thể Lễ Vượt Qua, trong việc thanh tẩy tâm hồn, thực hành đức ái hoàn hảo trong cuộc sống của người kitô hữu và trong thái độ sám hối.
5. Sám hối là gì?
Từ « sám hối » theo bản dịch la tinh bắt nguồn từ một từ hy lạp Metanoia có nghĩa là « trở về » ( theo nghĩa bóng: thay đổi tư tưởng) của người tội, có nghĩa là toàn bộ những hành vi bên trong cũng như bên ngoài để sửa chữa tội lỗi đã phạm và tình trạng của sự việc là hậu quả của tội nhân.
Nghĩa đen là “thay đổi cuộc sống” có nghĩa là hành vi của các tội nhân trở về với Thiên Chúa sau khi đã lìa xa Ngài hoặc đã mất đức tin.
6. Những biểu hiện nào của việc sám hối?
Việc sám hối bên trong của người Kitô hữu có thể có những biểu hiện rất khác nhau. “Kinh Thánh và các Giáo Phụ nhấn mạnh trên tất cả ba hình thức: ăn chay, cầu nguyện và bố thí, mà thể hiện qua việc chuyển đổi trong mối quan hệ đối với chính mình, đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Cùng với sự thanh tẩy triệt để do Bí tích Rửa tội hoặc sự hy sinh mang lại, các tội nhân kể đó như là phương tiện để có được sự tha thứ tội lỗi, cố gắng hòa giải với tha nhân, nước mắt của sự hối cải, mối quan tâm cho sự cứu rỗi của những người khác, lời chuyển cầu của các thánh và thực hành bác ái phải “bao trùm tội nhân” (1 P 4.8) (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1434)
7. Người kitô hữu buộc phải làm việc sám hối?
“Tất cả các tín hữu, mỗi người tùy theo những cách khác nhau của họ, buộc phải theo luật của Thiên Chúa để làm việc sám hối. Tuy nhiên, để tất cả các tín hữu có cùng một việc đền tội, Giáo Hội đã đặt ra những ngày nhất định để trong thời gian này các tín hữu dâng hiến một cách đặc biệt cầu nguyện, làm các công việc đạo đức, bác ái, và quên mình trong việc hoàn thành nghĩa vụ riêng được trao một cách trung thành tuyệt đối, và nhất là tuân giữ việc ăn chay và kiêng thịt (Giáo luật, số 1249)
8. Có những ngày và giờ nào để sám hối?
“Trong Giáo Hội phổ quát, tất cả các buổi thứ sáu hàng năm và Mùa Chay là những ngày và thời gian để sám hối .”(Giáo Luật, số 1250)
9. Người Kitô hữu phải làm gì trong những ngày thứ sáu hằng năm?
Để tưởng nhớ cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô trên Thập Giá”, mỗi thứ sáu, trừ khi trùng hợp với lễ trọng, các tín hữu buộc phải kiêng thịt, hoặc bất kỳ thực phẩm khác theo qui định của Hội Đồng Giám Mục; các tín hữu phải ăn chay và kiêng thịt vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. “(Giáo Luật, số 1251)
10. Mùa Chay bắt đầu khi nào?
Mùa Chay bắt đầu vào ngày thứ Tư Lễ Tro và kết thúc ngay lập tức trước khi Thánh Lễ Tiệc Ly của Chúa (Thứ Năm Tuần Thánh). Trong suốt giai đoạn này được kể như là một sự thống nhất:
1) Thứ tư Lễ Tro,
2) Các Chúa Nhật, I-II ; III, IV, V ; và Chúa Nhật Lễ Lá,
3) Lễ Truyền Dầu.
4) Các ngày lễ.
11. Thứ tư Lễ tro là ngày nào?
Đây là sự khởi đầu của Mùa Chay, một ngày sám hối đặc biệt, trong đó người tín hữu hiển lộ lòng mong muốn cá nhân đế TRỞ VỀ với Thiên Chúa.
Bằng việc đón nhận việc xức tro trong các nhà thờ, người tín hữu chứng tỏ sự khiêm tốn và chân thành của con tim, mong muốn chuyển đổi và thực sự tin vào Tin Mừng.
12. Nguồn gốc của việc xức tro có từ khi nào?
Nguồn gốc của việc xức tro thuộc về khuôn khổ của việc sám hối chính thức. Nguồn gốc này bắt đầu bắt buộc đối với toàn bộ cộng đồng Kitô hữu từ thế kỷ thứ mười. Phụng vụ hiện nay vẫn giữ được yếu tố truyền thống xức tro và giữ chay nghiêm ngặt.
13. Nhận phép lành và việc xức tro được làm khi nào?
Phép lành và việc xức tro được ban trong Thánh Lễ sau bài giảng; trong trường hợp đặc biệt, các tín hữu có thể được lãnh nhận trong một buổi cử hành Lời Chúa. Các hình thức xức tro được lấy cảm hứng từ Kinh Thánh: 3 St,19 và Mac 1,15.
14. Tro lấy từ đâu?
Theo truyền thống từ thế kỷ thứ mười hai, Tro lấy từ những lá ô liu hoặc lá dừa được làm phép trong Chúa Nhật Lễ Lá của năm trước. Lời chúc lành nhắc nhớ lại tình trạng tội lỗi cho nhưng ai được nhận lãnh.
15. Có những biểu tượng nào của tro?
Các biểu tượng của tro là như sau:
a) tình trạng suy yếu và tự mãn của con người dẫn họ tiếp cận gần đến sự chết.
b) tình trạng tội lỗi của con người.
c) Cầu nguyện và khẩn nài tha thiết để Thiên Chúa đến trợ giúp.
d) Được sống lại, vì lẽ tất cả mọi người đều được kêu gọi tham dự vào chiến thắng của Chúa Kitô.
16. Giáo Hội mời gọi người tín hữu điều gì trong Mùa Chay?
Giáo Hội mời gọi chúng ta làm cho Mùa Chay trở nên một thời gian tĩnh tâm tinh thần trong đó việc cố gắng chiêm niệm và cầu nguyện phải là một nỗ lực lâu dài của cá nhân , tùy thuộc vào lòng quảng đại của mỗi tín hữu.
17. Có những hậu quả nào của một Mùa Chay Thánh?
Nếu chúng ta sống tốt Mùa Chay, chúng ta phải có một sự chuyển đổi cá nhân thực sự và sâu sắc, và với thái độ này, Mùa Chay giúp chúng ta chuẩn bị tham dự vào đại lễ quan trọng nhất trong năm đó là Chúa Nhật Lễ Phục Sinh.
18. Hoán cải là gì?
Hoán cải là muốn hòa giải với Thiên Chúa, xa rời sự ác, để thiết lập một mối quan hệ thân thiện với Đấng Tạo Hóa.
Điều này có nghĩa là mong muốn ăn năn và xưng thú tất cả các tội lỗi của chúng ta.
Sau khi trở lại trong ân sủng (không còn tội trọng), chúng ta phải thay đổi từ bên trong (thái độ) bất cứ điều gì không làm hài lòng Thiên Chúa.
19. Tại sao người ta nói rằng Mùa Chay là thời kỳ quan trọng và là thời kỳ sám hối?
“Thời gian và ngày sám hối trong năm phụng vụ (Mùa Chay, mỗi thứ sáu trong việc tưởng nhớ sự chết của Chúa) là những khoảnh khắc quan trọng của việc sám hối trong Giáo Hội. Thời gian này là đặc biệt thích hợp cho việc tập luyện các bài tập thiêng liêng, cử hành phụng vụ sám hối, các cuộc hành hương như là dấu hiệu của sự ăn năn, tự nguyện ăn chay, làm phúc bố thí, và chia sẻ tình huynh đệ (các công việc từ thiện và truyền giáo) “. (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1438).
20. Lòng mong muốn hoán cải cụ thể của tôi thế nào?
Trong nhiều cách khác nhau, nhưng vẫn còn thực hành việc sám hối, chẳng hạn như:
1. Đón nhận Bí Tích Hòa Giải (Bí tích giải tội hoặc xưng tội) và làm tốt việc xưng thú tội: rõ ràng, ngắn gọn, cụ thể và đầy đủ.
2. Xóa bỏ những sự chia rẽ thông qua sự tha thứ, và phát huy tinh thần huynh đệ.
3. Thực hành những công việc của lòng thương xót.
21. Các công việc của lòng thương xót là gì?
Các công việc tinh thần của lòng thương xót là:
– Giảng dạy cho người không hiểu biết.
– Khuyên nhủ những người cần lời khuyên.
– Sửa chữa những người lạc đường
– Tha thứ cho những người nguyền rủa.
– An ủi kẻ buồn sầu.
– Kiên nhẫn chịu đựng những nghịch cảnh và yếu đuối của tha nhân.
– Cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết.
Những việc phúc đức về thể xác :
– Thăm viếng bệnh nhân.
– Cho kẻ đói ăn.
– Cho kẻ khát uống.
– Cứu kẻ bị giam cầm.
– Cho kẻ rách rưới ăn mặc.
– Cho khách đỗ nhà.
– Chôn xác kẻ chết.
22. Các nghĩa vụ của một người Công Giáo trong Mùa Chay là gì?
Người công giáo phải thực hiện sắc chỉ ăn chay vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh và phải kiêng thịt mỗi thứ sáu cũng như việc xưng tội rước lễ.
23. Ăn chay là gì?
Ăn chay là ăn một bữa trong một ngày, với một chế độ ăn uống thanh đạm vào buổi sáng và buổi tối. Không nên ăn ngoại bữa, ngoại trừ trường hợp bệnh tật.
24. Ai buộc phải giữ chay?
Luật giữ chay là bắt buộc đối với các vị thành niên cho đến 59 tuổi. (x. CIC, số 1252)
25. Kiêng thịt là gì?
Kiêng thịt là việc khước từ ăn các loại thịt (đỏ, trắng).
26. Ai buộc phải kiêng thịt?
Luật kiêng thịt buộc tất cả những ai có đủ 14 tuổi tròn (x.CIC, n° 1252).
27. Các tín hữu có thể thay đổi việc giữ chay và kiêng thịt?
Các tín hữu không phải ăn chay hay kiêng cữ như việc áp đặt nhưng như là một phương tiện cụ thể mà Giáo Hội mời gọi các tín hữu lớn lên trong tinh thần thực sự sám hối.
28. Những khía cạnh mục vụ nào cần nhấn mạnh trong Mùa Chay?
Mùa Chay là mùa cao điểm của phụng vụ, trong đó toàn thể Giáo Hội chuẩn bị cho việc cử hành Lễ Phục Sinh. Lễ Vượt Qua của Chúa, Bí tích Rửa tội và lời mời hòa giải, thông qua bí tích giải tội, đó là những mối tương quan quan trọng.
Nên sử dụng phương tiện mục vụ như:
1) Việc dạy Giáo Lý về mầu nhiệm Phục sinh và các Bí tích;
2) Tiếp cận và cử hành thường xuyên Lời Chúa
3) Nếu có thể được, nên tham gia hàng ngày các phụng vụ mùa
Mùa Chay, cử hành sám hối, và nhất là việc tiếp nhận bí tích giải tội.
4) Các kỳ Linh thao, các cuộc hành hương như là một dấu hiệu của sự ăn năn, sự tự nguyện ăn chay, làm phúc bố thí, các công việc từ thiện và truyền giáo.
Theo Catholique.org- Thiệu Chuyên Chuyển Dịch
TỘI LỖI và THÁNH THIỆN
Mùa Chay lại về. Mùa Chay nhắc nhớ tới kiếp bụi tro của phàm nhân, đời tội lỗi của chúng ta. Ai là người có tội? Ai là người đạo đức? Nhưng có ai là tội nhân thánh thiện hay không? Có. Và có thể là chính mỗi chúng ta, nếu ...
Như chúng ta biết, ai trong chúng ta cũng đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa nhân lành. Có người mãi mãi là tội nhân, nhưng có người là tội nhân rồi nên thánh, họ chính là các “tội nhân thánh thiện”. Nghe vô lý chăng? Không hề vô lý, mà lại rất hợp lý. Tại sao? Vì ai trong chúng ta cũng đều trải qua con đường tội-lỗi-và-thứ-tha, ngay cả những người đạo đức nhất, bởi vì đối với Thiên Chúa, bất kỳ ai cũng chỉ là những tội nhân. Có một số thánh nhân “nổi tiếng” về sa ngã, những người tội lỗi này đã thành tâm sám hối và nên thánh. Bạn có nhớ các “tội nhân thánh thiện” đó là ai?
1. DISMAS
Dismas là ai? Dismas, còn được viết là Dimas hoặc Dysmas, là người cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu trên Đồi Sọ (Gôn-gô-tha), là người mệnh danh là “người trộm lành”. Khi tử tội kia (Dumachus) không biết phận mình mà còn phỉ báng và thách thức Chúa Giêsu, Dismas đã la mắng Dumachus: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:40-41). Rồi Dismas thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42). Chúa Giêsu nói với Dismas: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Quá “đã”! Cả đời trộm cướp, cuối cùng Dismas cướp luôn Thiên Đàng. Có lẽ không ai sướng bằng Thánh Dismas, được đồng hành với Chúa Giêsu vào Thiên đàng ngay lập tức!
2. PHÊRÔ
Phêrô là ai? Là Giáo hoàng tiên khởi của Giáo hội Công giáo, được Chúa Giêsu trao trọng trách sau 3 lần phải xác nhận nhân đức yêu mến: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21:17). Thế nhưng Giáo hoàng Phêrô cũng là người bị Chúa Giêsu nguyền rủa nặng nhất: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16:23; Mc 8:33). Với kinh nghiệm “xương máu” đó, chính Thánh Phêrô đã khuyên hậu duệ: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ” (1 Pr 5:2). Ông Phêrô nóng tính và cương quyết, Chúa Giêsu báo trước mà ông vẫn nói mạnh. Nhưng rồi sự việc xảy ra đúng y boong. Ông sực nhớ điều Đức Giêsu đã nói với mình: “Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần” (Mc 14:72). Thế là ông oà lên khóc.
3. MÁTTHÊU
Mátthêu là ai? Là dân thu thuế. Thời đó, dân thu thuế bị liệt vào loại người tội lỗi. Nhưng khi đi ngang qua trạm thu thuế, Đức Giêsu thấy một người tên là Mátthêu đang ngồi tại trạm. Ngài bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” (Mt 9:9), Mátthêu sẵn sàng bỏ mọi thứ và đi theo Đức Giêsu ngay, không chút lưỡng lự, không so đo hay tính toán gì. Và rồi Mátthêu còn là tác giả cuốn Phúc Âm thứ nhất.
4. PHAOLÔ
Phaolô là ai? Là dân biệt phái – Pharisêu. Sau khi trở lại, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do Thái và tiếng Hy Lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa. Trước khi ngã ngựa trên đường Damascus, Phaolô có tên là Saolô. Ngài đã từng than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là “định mệnh đã không chọn một người khá hơn”. Thánh Phaolô là một trong hai cột trụ của Giáo hội.
5. NỮ TỘI NHÂN
Một phụ nữ bán loại hoa đặc biệt, một cô gái làng chơi hạng sang, “nổi tiếng” với đám dân chơi. Phụ nữ này là hiện thân của những người bị phỉ báng, chị là một phụ nữ tội lỗi, bị mọi người khinh bỉ, xa lánh, ghét bỏ, nhưng chị đã lấy nước mắt rửa chân Ðức Giêsu (Lc 7:36-50). Chủ nhà Simon không rửa chân và xức dầu thơm cho Chúa Giêsu, nhưng người-khách-tội-lỗi-không-mời-mà-đến đã lấy nước mắt rửa chân Chúa, lấy tóc lau chân Chúa, và xức dầu thơm chân Chúa. Tội lỗi ngập đầu nhưng được Chúa tẩy sạch và tha hết. Lý do Chúa đưa ra rất đơn giản: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (Lc 7:47). Tình yêu mới quan trọng, và chính tình yêu mới có thể chiến thắng tội lỗi. Chiếc áo không làm nên thầy tu. Đừng xét đoán người khác!
Xin được “mở ngoặc” nhỏ: Đừng lầm lẫn mà cho rằng Thánh Maria Mácđala (Mađalêna) chính là phụ nữ tội lỗi này, người được Thánh sử Luca kể lại trong trình thuật Lc 7:36-48. Chúng ta cùng “xem xét” nghiêm túc:
Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn. Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Thấy vậy, ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!”. Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: “Này ông Simôn, tôi có điều muốn nói với ông!”. Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói”. Đức Giêsu nói: “Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?”. Ông Simôn đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn”. Đức Giêsu bảo: “Ông xét đúng lắm”.
Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simôn: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”. Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi”.
Trong Tân Ước, ngoài Đức Maria Mẹ Thiên Chúa (Mt 1:16), ai cũng đã rõ, chúng ta thấy có vài phụ nữ khác cũng tên là Maria: Maria Mácđala và một Maria khác (Mt 28:1), Maria vợ ông Cơlôpát (Ga 19:25), Maria mẹ ông Giô-xết (Mc 15:47), Maria mẹ ông Giacôbê (Mc 16:1). Maria mẹ ông Giacôbê Thứ (Nhỏ, tác giả Thư Thánh Giacôbê và lãnh đạo Giáo hội Giêrusalem, khác với Giacôbê Lớn) và Maria mẹ ông Giô-xết cũng là một: “Có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Giôxết, cùng bà Salômê” (Mc 15:40).
Nói về các phụ nữ đi theo Chúa Giêsu, Thánh sử Luca cho biết: “Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mácđala, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8:1-3).
Thánh Máccô cho biết rõ: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ” (Mc 16:9). Rõ ràng Maria Mácđala chính là người-được-trừ-khỏi-bảy-quỷ (do Chúa Giêsu chữa), tức là Maria ở Mácđala, chắc chắn khác với Maria ở Bêtania. Bêtania là nơi mà Thánh Gioan xác định: “Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số” (Ga 11:18).
Thánh sử Gioan (Ga 12:9-11) cho biết thêm điều liên quan dạ tiệc mà Chúa Giêsu được một phụ nữ xức dầu thơm: “Một đám đông người Do-thái biết Đức Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Ladarô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Các thượng tế mới quyết định giết cả anh Ladarô nữa, vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giêsu”.
Trước đó, Thánh sử Gioan (Ga 11:1-2) đã cho biết: “Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria. Cô Maria là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh Ladarô, người bị đau nặng, là em của cô”. Thánh Gioan cho biết các chi tiết rất rõ ràng. Sau đó, Thánh Gioan cho biết rằng Ladarô chết và được Đức Giêsu cho sống lại, dù đã an táng 4 ngày và nặng mùi rồi.
Như vậy, rõ ràng người phụ nữ mà chúng ta gọi là tội nhân kia KHÔNG PHẢI là Maria ở Mácđala, mà chính là Maria ở Bêtania – em gái của Mácta và chị của Ladarô.
Còn Maria Mácđala thì sao? Thánh Gioan cho biết: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala” (Ga 19:25). Trong lúc “dầu sôi lửa bỏng”, không thấy Kinh Thánh nói tới hai chị em Mácta và Maria, nhưng xác định tên rõ ràng: MARIA MÁCĐALA (Maria Mađalêna).
Tất cả là nhờ Lòng Chúa Thương Xót, vì con người rất yếu đuối. Nếu không có Lòng Chúa Thương Xót thì chẳng ai xứng đáng hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Nhưng thật là may mắn, dù chúng ta chỉ là tội nhân, và dù chúng ta có tội lỗi thế nào thì hãy vững tin vào Thiên Chúa, chứ đừng tuyệt vọng. Tạ ơn Chúa muôn đời!
Ai tội lỗi hoặc ai thánh thiện? Hãy đọc lại trình thuật Lc 18:10-14, câu chuyện này do Chúa Giêsu đưa ra:
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Chúa Giêsu kết luận: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Hãy đấm ngực mình và cố gắng tu tâm dưỡng tính, đừng liếc xéo người khác!
TRẦM THIÊN THU