“ Người này không phải là con ông Giuse sao? Con Thiên Chúa đã đi vào đời trong thân phận của một con người, với một người cha là thánh Giuse làm nghề thợ mộc. Hành động ấy làm cho Ngài trở nên gần gũi, sống động, thân thiện và nhất là đem đến ơn cứu độ cho mỗi chúng ta.
Giờ phút này, Ngài cũng đang đến với chúng ta. Xin cho chúng ta có một tâm hồn cởi mở, chân thành, để biết đón nhận Chúa, sẵn sàng để Chúa biến đổi chúng ta thành con người mới, thành chứng nhân Tin Mừng Chúa cho mọi người.
Đã từ lâu, bóng đá trở thành một môn thể thao giải trí không thể thiếu của nhiều người. Vào những ngày tranh cúp của giải bóng đá thế giới, mọi người đều hồi hộp chờ đợi và lòng người chơi vơi theo những trái bóng. Chuyện xảy ra trong mùa bóng Euro 88, ngay trên sân nhà, chỉ trong khoảnh khắc 15 giây của phút thứ 89, bằng đường chuyền của Breukelen tới Koeman và qua Vonter, Van Basten đã ghi bàn thắng thứ hai cho đội Hà Lan, bàn thắng quyết định để đưa đưa đội Hà Lan vào vòng chung kết. Thế là tan tành giấc mộng vàng vô địch Euro 88 của nước chủ nhà CHLBĐ. 15, 8 triệu khán giả của nước chủ nhà đã ngẩn ngơ và nuối tiếc. Một cơ hội ngàn vàng đã qua đi để rồi không bao giờ trở lại. Một bàn thua ngay trên sân nhà quả là khó tin khó hiểu.
Hình 1 : Thiên Chúa kêu gọi Giêrêmia.
1/ Để hướng dẫn dân Chúa/ Thiên Chúa đã chọn gọi ai ? T. Ngài kêu gọi các tiên tri/ để loan báo cho dân ý định của Thiên Chúa.
2/ Để tuyển chọn họ/ Ngài đã làm gì ? T. Ngài tiền định/ và thánh hóa họ ngay từ khi còn trong lòng mẹ.
3/ Sứ mạng của họ là gì ? T. Nói tất cả những gì/ mà Thiên Chúa truyền cho họ phải nói.
Hình 2 : Êlia và hoàng hậu Giêzabel.
4/ Để trung thành với Thiên Chúa/ tiên tri Êlia đã gặp phải những gì ? T. Những chống đối/ ruồng rẫy/ và kể cả việc bị tìm giết bởi hoàng hậu Giêzabel.
5/ Hoàng hậu Giêzabel đã đe dọa tiên tri Êlia thế nào ? T. Bà thề sẽ lấy cho bằng được đầu Êlia/ Vì thế/ vị tiên tri đã phải trốn sang vùng đất Sarepta.
6/ Ông có bị tiêu diệt bởi hoàng hậu Giêzabel không ? T. Không/ vì Chúa đã gìn giữ bảo vệ/ và nuôi vị tiên tri trong cơn bách hại/ nhờ vào sự giúp đỡ của bà góa ở Sarepta.
Hình 3 : Chúa Giêsu bị xua đuổi bởi người đồng hương Nagiareth.
7/ Trong khi mọi người tán thành Chúa/ thì những người Nagiareth đã làm gì với Chúa ? T. Họ nghi ngờ/ từ chối/ và không tin nhận vào Ngài.
8/ Lý do gì mà họ lại từ chối và không muốn tin Ngài? T. – Vì họ nghĩ Chúa Giêsu/ con của bác thợ mộc Giuse tầm thường/ không thể là Đấng cứu thế được. – Hơn nữa/ vì Ngài đã không làm phép lạ theo ý của họ. – Nhất là/ vì Ngài đã vạch trần thái độ cứng cỏi/ và cố chấp của họ.
9/ Họ đã đối xử với Ngài thế nào ? T. Không chỉ ghét bỏ/ căm thù/ họ còn tìm cách loại trừ/ Ngài bằng cách xô Ngài xuống vực thẳm.
III. ÁP DỤNG :
Hình 4 : Em thiếu nhi đọc Lời Chúa.
10/ Qua Bí Tích Rửa Tội/ chúng ta được tham dự vào những chức vụ nào? T. Tham dự vào ba chức năng/ : Tư tế/ tiên tri/ và vương đế.
11/ Để chu toàn sứ mạng tiên tri/ em phải làm gì ? T. – Siêng năng học hỏi Lời Chúa/ vì : “ Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô ” .
- Loan báo và làm chứng về Chúa bằng cách :
+ Sống đời thánh thiện/ Đồng thời biết khuyên bảo/ nhắc nhở bạn bè tin vào Chúa/ can ngăn họ không được làm điều xấu. + Trung thành với sứ mạng làm chứng/ cho dù có gặp nhiều hiểu lầm/ thua thiệt và chống đối/ chê trách của bạn bè chung quanh.
Giêsu con Thiên Chúa/ vị tiên tri vĩ đại phi thường/ Đã từng bị chối từ/ và loại trừ ngay tại quê hương/ Em được thành ngôn sứ/ là nhờ vào Bí Tích Rửa Tội. Sống thánh giữa cuộc đời/ để làm nhân chứng cho nước Trời.
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Người ta công nhận như vậy. Nhưng cũng chính “cửa sổ tâm hồn” đó lại có thể là “cửa ngõ tối tăm” của hầm hố tội lỗi. Chúa Giêsu gọi mắt là đèn của thân thể: “Đèn của thân thể là con mắt. Nếu mắt anh sáng thì toàn thân sẽ sáng” (Mt 6:22). Và Ngài nói về “ngõ tối” của con mắt: “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục” (Mt 5:28-19).
Kinh Thánh cho biết thêm rằng có sáu điều làm Thiên Chúa gớm ghét và bảy điều khiến Ngài ghê tởm. Trong đó, điều đầu tiên liên quan con mắt: “MẮT kiêu kỳ, LƯỠI điêu ngoa, TAY đổ máu người vô tội, LÒNG mưu tính những chuyện xấu xa, CHÂN mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra LỜI DỐI TRÁ, người GIEO XUNG KHẮC giữa anh em” (Cn 6:17-19).
Tục ngữ Rumani nói: “Đàn ông có đôi mắt để nhìn người khác, đàn bà có đôi mắt để người khác nhìn”. Nam và nữ có những thứ khác nhau, thậm chí có vẻ trái ngược nhau, nhưng đó là nghịch-lý-thuận, như phần cứng đã được cài đặt sẵn, và chính sự khác nhau đó nhằm bổ túc lẫn nhau chứ không để đối nghịch nhau. Hằng ngày, chúng ta vẫn thấy khi “đấu khẩu” với nhau, đàn ông chê đàn bà, đàn bà trách đàn ông, nhưng rồi họ vẫn cần đến nhau, có thiếu nhau được đâu! Phải chăng họ đang tự mâu thuẫn với chính mình?
Sách Sa-mu-en, quyển 2, nói về quá trình phạm tội của Vua Đa-vít. Ông là người “có đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1 Sm 16:12), được Thiên Chúa tuyển chọn – nhưng chắc chắn không vì ông điển trai, ông có vợ và cung phi mỹ nữ phục dịch rồi, giàu sang phú quý, muốn gì được nấy, thế mà ông vẫn tham lam đến nỗi bày mưu thâm kế độc để chiếm đoạt vợ của tướng U-ri-gia. Nguyên nhân bởi từ ánh mắt: Ông nhìn thấy một mỹ nhân đang tắm – nàng Bát Se-va, nhan sắc khiến chim sa cá lặn, đổ nước nghiêng thành. Tuy nhiên, phụ nữ này cũng “chẳng vừa” gì, có chồng rồi mà vẫn “dễ dãi”, trắc nết, không ngần ngại phản bội chồng để được “gần gũi” với nhà vua.
Chúng ta cùng đọc lại trình thuật 2 Sm 11:1-26 để biết rõ chi tiết:
Lúc xuân về, thời mà các vua ra quân, vua Đa-vít sai ông Giô-áp đi, cùng với các bề tôi của vua và toàn thể Ít-ra-en. Họ giết hại con cái Am-mon và vây hãm Ráp-ba. Còn vua Đa-vít thì ở lại Giêrusalem.
Vào một buổi chiều, vua Đa-vít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua THẤY một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời. Vua Đa-vít sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: “Đó chính là bà Bát Se-va, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia người Khết”. Vua Đa-vít sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Đa-vít rằng: “Tôi có thai”.
Vua Đa-vít sai người đến nói với ông Giô-áp: “Hãy sai U-ri-gia, người Khết, về gặp ta”. Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về gặp vua Đa-vít. Khi ông U-ri-gia đến với vua, vua Đa-vít hỏi thăm về ông Giô-áp, về quân binh, về chiến sự. Rồi vua Đa-vít bảo ông U-ri-gia: “Hãy xuống nhà của ngươi và rửa chân”. Ông U-ri-gia ra khỏi đền vua, có người bưng ra một phần thức ăn của nhà vua theo sau. Nhưng ông U-ri-gia nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình.
Người ta báo tin cho vua Đa-vít rằng: “Ông U-ri-gia đã không xuống nhà ông”. Vua Đa-vít hỏi ông U-ri-gia: “Chẳng phải ngươi đi đường xa mới về ư? Tại sao ngươi không xuống nhà của ngươi?”. Ông U-ri-gia thưa với vua Đa-vít: “Hòm Bia cũng như Ít-ra-en và Giu-đa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Giô-áp và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao? Tôi xin lấy mạng sống của ngài, lấy chính mạng sống của ngài mà thề: tôi sẽ không làm điều ấy!”. Vua Đa-vít bảo ông U-ri-gia: “Hãy ở lại đây hôm nay nữa, ngày mai ta sẽ cho ngươi đi”. Ông U-ri-gia ở lại Giê-ru-sa-lem ngày hôm đó. Ngày hôm sau, vua Đa-vít mời ông; ông ăn uống trước mặt vua, và vua cho ông uống say. Đến chiều, ông ra nằm giường của ông cùng với các bề tôi của chúa thượng ông, nhưng không xuống nhà mình.
Sáng hôm sau, vua Đa-vít viết thư cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia mang đi. Trong thư, vua viết rằng: “Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết”. Ông Giô-áp đang thám sát thành liền để ông U-ri-gia ở chỗ ông biết là có quân hùng mạnh nhất. Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Giô-áp. Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua Đa-vít đã ngã gục, và ông U-ri-gia, người Khết, cũng chết.
Ông Giô-áp sai người về báo cho vua Đa-vít biết tất cả diễn tiến trận đánh. Ông ra lệnh cho người lính biệt phái rằng: “Khi anh kể tất cả diễn tiến trận đánh cho đức vua xong, nếu cơn giận đức vua nổi lên và người hỏi anh: Tại sao các ngươi lại đến gần thành mà giao chiến? Các ngươi không biết là người ta bắn từ trên tường thành xuống sao? Ai đã hạ A-vi-me-léc, con ông Giơ-rúp-be-sét? Chẳng phải một người đàn bà đã liệng xuống ông một thớt cối đá và ông đã chết tại Tê-vết đó sao? Tại sao các ngươi lại đến gần tường thành?, anh sẽ nói: Tôi tớ ngài là ông U-ri-gia, người Khết, cũng đã chết”.
Người lính biệt phái ra đi và đến báo cho vua Đa-vít biết mọi điều ông Giô-áp đã sai anh về nói. Người lính biệt phái nói với vua Đa-vít: “Những người ấy đã mạnh hơn chúng tôi và đã xông ra đánh chúng tôi ở ngoài đồng, nhưng chúng tôi đã đẩy lui chúng cho đến lối vào cửa thành. Từ trên tường thành, lính bắn cung đã bắn xuống các bề tôi của ngài. Một số bề tôi đức vua đã chết, cả tôi tớ ngài là ông U-ri-gia, người Khết, cũng đã chết”.
Vua Đa-vít bảo người lính biệt phái: “Hãy nói với ông Giô-áp thế này: Đừng bực mình về chuyện ấy, vì việc binh đao là thế: khi thì người này, khi thì người kia bị chém. Hãy mạnh mẽ tấn công và phá huỷ thành. Ngươi hãy khích lệ ông ấy”.
Vợ ông U-ri-gia nghe tin ông U-ri-gia, chồng mình, đã chết, thì làm ma cho chồng. Khi tang lễ đã qua, vua Đa-vít sai người đi đón nàng về nhà mình. Nàng trở thành vợ vua và sinh cho vua một con trai. Nhưng hành động của vua Đa-vít không đẹp lòng Đức Chúa.
Đa-vít thâm độc và tàn nhẫn quá. Tướng U-ri-gia tốt lành, tin người nên không hề biết mình bị sập quỷ kế của vua và bị cô vợ cắm sừng. Trai ma, gái quỷ. Kẻ tám lạng, người nửa cân. Cả Đa-vít và cô nhân tình Bát Se-va đều nham hiểm, chẳng ai vừa!
Chúa Giêsu đã xác định: “Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết” (Mt 10:26; Lc 12:2). Vâng, “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).
Cái gì tốt thì đẹp, nhưng cái gì đẹp chưa chắc là tốt. George Sand nhận xét: “Cái đẹp thấy được bằng mắt chỉ là phép màu trong khoảng khắc; đôi mắt của cơ thể không nhất thiết là đôi mắt của tâm hồn”.
Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài” (Mc 7:15, 18-19). Còn Thánh Phaolô xác nhận: “Không có gì tự nó là ô uế; có ô uế là chỉ đối với người cho nó là ô uế” (Rm 14:14).
Thiên Chúa rất nhân từ, Thánh Ý Ngài nhiệm mầu. Vua Đa-vít và bà Bát Se-va ngoại tình với nhau, nhưng chính bà này lại sinh ra con người khôn ngoan nhất là Sa-lô-môn. Và rồi vua Đa-vít cũng được tha thứ tội lỗi nhờ biết thật lòng ăn năn sám hối.
Để được tha thứ và hưởng nhờ Lòng Chúa Thương Xót, điều kiện tiên quyết là ăn năn sám hối, như Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2). Vâng, tội nào cũng ghê gớm – dù lớn hay nhỏ, dù nặng hay nhẹ. Sai lầm rất nhỏ, như chúng ta gọi là sơ suất chứ không cố ý, cũng hoàn toàn bất xứng với Thiên Chúa, không thể nhìn thấy Tôn Nhan Ngài chứ nói chi là được đến gần hoặc ở bên Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa vô cùng nhân từ, Ngài không chấp lách chúng ta nên Ngài sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Thực sự Ngài rất muốn chúng ta được Ngài tha thứ và được sống trường sinh với Ngài. Tuyệt vời quá, Hồng Ân Thương Xót quá lớn lao!
Thánh nhân nào cũng có một quá khứ – ý nói về quá khứ tội lỗi, và tội nhân nào cũng có một tương lai – ý nói hoàn thiện và nên thánh. Hãy cảnh giác con mắt, vì ánh mắt dẫn tới ham muốn, ham muốn dẫn tới hành động. Dù có thể có những lúc chúng ta cảm thất thất vọng nhưng đừng bao giờ tuyệt vọng (x. 2 Cr 4:8). Nguyện xin Thiên Chúa giữ gìn chúng ta như thể con ngươi trong Thiên Nhãn của Ngài, và xin Ngài thương che chở chúng ta dưới bóng Ngài mãi mãi (Tv 17:8).
Năm hết, Tết đến, và Mùa Chay cũng khởi đầu, chúng ta cùng thành tâm sám hối và tín thác vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 51:3-6).
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4,24).
Như Mẹ: Người làng Nadarét không tin Ðức Giêsu là ngôn sứ. Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ. Ðức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin. Ðiều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn. Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.
Với Mẹ: Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nadarét đã không tin Chúa. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người. Có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện trong phép Thánh Thể. Xin cho chúng con nhận ra Ngài là Đấng được Cha sai đến, rồi từ đó hết lòng tin tưởng đi theo Ngài.
Nhờ Mẹ: Lạy Đức Nữ rất đáng kính chuộng, xin thêm đức tin cho chúng conđể chúng con biết khiêm tốn nhận thấy sự hiện diện của Chúa Giêsugiữa lòng cuộc sống đời thường.
Trong Mẹ: Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.
(Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh).
SUY NIỆM
Tin Mừng hôm nay trình thuật sự kiện Đức Giêsu về thăm Nagiarét, quê hương của Người. Khởi đầu mọi người vui vẻ đón tiếp Người và rất thám phục những gì Người giảng dạy, Người làm. Thế nhưng, sau đó thì hoàn toàn thay đổi thái độ đến mức khó tin: không chấp nhận Người, đòi giết Người. Tại sao họ lại có thái độ như thế? Thái độ đó của họ chính Chúa đã biết trước khi Người khẳng định với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho ta nghe câu ngạn ngữ: hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình! Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông … không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình".
Lời Chúa đã đi đúng vào tim đem của họ, nên họ phẫn nộ với Người. Những người đồng hương của Chúa dĩ nhiên là tự hào vì danh tiếng của Chúa, tuy nhiên, sự tự hào đó đã đưa họ đến chỗ muốn sở hữu, muốn độc quyền Người. Những gì Người có khả năng làm thì phải làm cho họ và chỉ cho họ mà thôi. Cho nên, khi Người cho họ biết Người phải loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc, cho người khác thì họ thấy khó chịu. Não trạng "một người làm quan cả họ được nhờ" đã ăn sâu vào vào tâm khảm của những người Nagiarét, quê hương của Chúa. Não trạng đó khiến họ không nhận ra tính phổ quát của ơn cứu độ, thấy được sứ mạng của Chúa Giêsu là đến với toàn thể nhân loại để rồi không thể đón nhận Người. Điều này cũng xảy ra với mọi người dân Israel khi cho rằng họ là dân được Chúa chọn, dân duy nhất đáng hưởng ơn cứu độ, dân duy nhất được Chúa thương nên vượt hơn hẳn các dân khác. Do đó, họ đã lên án và giết Chúa vì đã không thoả mãn những yêu sách của họ.
Ngày nay, thái độ của nhiều Kitô hữu cũng giống như thái độ của những người Nagiarét xưa: lúc đầu theo Chúa, hay nghe được một câu lời Chúa nào đó phù hợp với mình thì thấy thích thú, phấn chấn và nhiệt tình nhưng theo thời gian thì thái độ trở nên dửng dưng với Tin Mừng, thậm chí còn oán trách Chúa vì theo Người xem ra chẳng lợi lộc gì cả mà chỉ thấy thiệt thòi, thấy phải cho đi.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người suy nghĩ lại thái độ đức tin của mình "tôi có thực sự đón nhận Chúa hay không?"
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.
Nếu truy tầm lý do tại sao có sự thay đổi này, ta sẽ thấy phần nào cách suy tư, lời nói và con người Đức Giêsu làm cho dân chúng Nagiarét bị chưng hửng đối với ý tưởng họ sẵn có về Đức Messia và sứ mạng của Ngài. Con người của Ngài không am hợp với những gì họ tưởng tượng. Ngài cũng giống như bất cứ ai trong họ; chẳng có gì tỏ ra là người thiên thai cả. Ở đây Ngài cũng chẳng thực hiện phép lạ nào trước mặt họ. Rồi sứ điệp của Ngài cũng chẳng nói lên những điều họ đang thực sự ước ao: bởi lẽ Ngài không loan báo cho họ một cuộc sống thế trần tiện nghi thoải mái, cũng không loan báo một nước Israel hùng cường vĩ đại. Chắc chắn họ mong chờ nơi Chúa Giêsu những gì Ngài đã từ khước khi bị cám dỗ trong sa mạc: bánh, sự lạ và quyền thế. Thế nhưng Ngài lại mang đến Lời Chúa, mang đến một nước Thiên Chúa tuy đơn sơ nhưng thật là vĩ đại. Các tiến sĩ luật mớm những chuyện đó cho dân chúng và làm thay đổi bầu không khí.
Hơn nữa, Ngài đã thực hiện những phép lạ ở chỗ khác, trước hết là ở là ở Caphanaum chứ không làm ở Nagiarét nơi họ cư ngụ; điều đó đụng chạm đến lòng ái quốc quá khích của họ khiến họ nói: ‘Thày lang ơi! Hãy chữa lấy mình. Mọi điều chúng tôi đã nghe xảy ra ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở nơi quê hương ông đây nữa đi!’ Chúa Giêsu trả lời: ‘Không có tiên tri nào được sùng mộ ở quê hương mình’, Ngài không chút nhượng bộ lòng ái quốc sai lầm của họ. Ngài không theo họ hướng dẫn, chính họ mới phải theo sự chỉ đạo của Ngài.
Ngài đi xa hơn nữa và cho họ thấy rằng việc họ được thuộc về dân Thiên Chúa tuyển chọn không hẳn là bảo đảm được cứu độ, chỉ có những tâm hồn biết chuẩn bị mới nhận được chứ không phải là những liên hệ máu mủ.
Xưa tiên tri Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp một người ngoại bang: vì bà goá Sarepta thuộc xứ Siđon này đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu ông. Rồi Naaman, người Syria cũng thế, ông đến với tiên tri Êlisêô và được chữa lành, còn những người đồng quê với tiên tri lại luôn cản mũi kỳ đà. Vậy hai người của Thiên Chúa đó đã đủ để cho thấy rằng cứ là người Israel mà thôi không đủ; người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn cứu độ bằng một con tim ngay thẳng và một tinh thần chân thành.
Dân cư Nagiarét đã hiểu được lời đe doạ. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu tỏ cho họ thấy rằng Ngài không theo cùng một lối suy tưởng như họ, không cùng hy vọng như họ và họ cần thay đổi não trạng. Nhưng họ lại không chịu, thế nên mới có sự thù địch giữa Ngài với họ.
Nhiệt tình ban đầu dựa trên tình cảm bỗng dưng đổi thành ghen ghét. Họ biết rõ Chúa đòi hỏi phải hoán cải, nhưng họ lại không muốn quay lại. Như thế là họ đã xua đuổi Ngài và ồn ào giận dữ, họ đuổi Ngài ra khỏi hội đường đến cuối làng để rồi xô Ngài từ trên triền đá xuống. Nhưng Ngài đi qua giữa họ mà họ chẳng thể hại được Ngài. Ngài ra đi để chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa.
Đối với chúng ta, việc Ngài từ bỏ ngôi làng nơi Ngài lớn lên là một sơ thảo về những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai: bị dân riêng khai trừ, từ nay Ngài đi về phía các dân ngoại.
Sự thay đổi bất ưng và thiếu suy nghĩ, việc biến thương yêu ra hận thù, tán dương thành bài xích ấy đáng cho ta suy nghĩ. Tự bản chất, Kitô giáo khơi dậy nơi những ai không thành kiến một sự hấp dẫn tự phát, bởi vì Tin mừng trả lời cho những vấn nạn thâm sâu nhất của con người và đáp lại nỗi thất vong thầm kín nhất của tâm hồn. Nhưng rõ ràng con người lại tiếp nhận với tất cả định kiến. Họ xét đoán theo mặt trái, nông cạn, dựa trên những thiên kiến đã được hấp thụ qua nền giáo dục. Họ quan niệm ơn cứu chuộc, trợ giúp theo cách thế của họ, kẻ theo chiều hướng coi trọng vật chất, ngưới lại theo xu hướng chính trị hay xã hội. Họ không có ý nghe để hấp thụ mà để biện minh cho những gì họ tưởng nghĩ hay mong ước. Họ lấy phán đoán cá nhân họ để đo lường Lời Chúa.
Nếu Lời Chúa không am hợp với những tư tưởng và ước muốn của họ thì họ liền kết án và khu trừ. Họ không muốn để mình được điều gì khác cân đo, nhưng muốn mình là khuôn là thước cho chính mình; họ không muốn cái gì khác thẩm định họ, nhưng muốn tự phán xét chính bản thân mình.
Bối cảnh đã xảy ra ở Nagiarét vẫn không ngừng tiếp diễn. Trong lần xuất hiện đầu tiên này, Chúa Giêsu khuyên bảo và cảnh giác. Mặc kệ tất cả, Ngài cứ bước đi giữa họ, đến với người khác, điều đó có nghĩa là sự bài xích chẳng thể làm gì được Ngài, nhưng sẽ trở lại chính họ. Chúa Giêsu sẽ đi xa, chính khi con người không muốn tiếp nhận Ngài. Khi họ ghét Ngài, thì Ngài đem tình thương đi chỗ khác; khi họ có ý giết Ngài thì Ngài vẫn không ngừng trao ban sự sống. Họ bị huỷ diệt, còn Ngài vẫn tiến bước đi.
ĐÓN NHẬN LỜI HẰNG SỐNG Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. (Lc 4,22) Suy niệm: Nhà bác học lỗi lạc nhất của thế kỷ 20 là A. Einstein thú nhận: “Khi còn bé, tôi đã học cả Kinh Thánh và sách Talmud. Là người Do Thái, nhưng tôi đã bị khuôn mặt sáng ngời của Đức Giê-su Na-da-rét mê hoặc... Chưa ai đọc các sách Tin Mừng mà không cảm thấy sự hiện diện thật sự của Đức Giê-su. Tính cách của Ngài rung lên trong mỗi từ ngữ. Một đời sống như vậy không huyền thoại nào chứa hết được.” Trước Einstein 20 thế kỷ, dân làng Na-da-rét cũng bị mê hoặc bởi những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người như vậy. Đó không chỉ là lời khôn ngoan của bậc vĩ nhân, mà còn là Lời hằng sống, là Ngôi Lời Thiên Chúa, là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Mời Bạn: “Đức Giê-su là một bậc thầy nghệ thuật không ai bì kịp về khả năng phơi bày cái cốt lõi thâm sâu của chân lý tinh thần” (G. Vermes). Ngài không chỉ nói những lời hay ý đẹp, nhưng còn có thể giúp bạn nhận thức chân lý mang tính sinh tử cho đời mình. Bạn hãy đọc và nghiền ngẫm lời Ngài trong sách Tin Mừng để hiểu được chân lý ấy. Sống Lời Chúa: Trong năm mới cũng là Năm Thánh này, tôi sẽ dành thời gian mỗi ngày đọc một đoạn Tin Mừng nhằm giúp mình hiểu biết và yêu mến Chúa Ki-tô hơn. Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con thán phục lời hay ý đẹp từ miệng Chúa như bao người khác. Thế nhưng, nhiều khi nại cớ bận rộn công việc mỗi ngày, con ngại ngùng khi phải dành thời gian đọc và suy gẫm Lời Chúa. Kế hoạch sống của con trong năm nay là có thời giờ tiếp cận Lời Chúa hằng ngày. Amen.
THÁNH GIOAN BOSCO HIỂN TU (1815-1888)
Ngày lễ Đức Mẹ lên trời năm 1815 cũng là ngày thánh Gioan Bosco ra đời. Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo khó, lại mồ côi cha từ lúc lên hai, Bosco không được may mắn hưởng những ngày thơ ấu êm đềm như các trẻ cùng tuổi. Mẹ cậu là bà Margarita phải làm lụng vất vả mới kiếm đủ tiền nuôi con. Bà rất tiết kiệm, yêu việc lao động và ham thích cầu nguyện. Cậu Bosco có nhiều đức tính cao quý, một trí tuệ thông minh sắc sảo, một trí nhớ như nhựa. Cậu rất ham thích học hỏi, nhưng không có đủ tiền học, cậu đến nhà cha sở để học. Nhưng rủi thay ít lâu sau cha sở lại qua đời.
Đã đến lúc phải chọn hướng đi cho cuộc đời, Bosco tỏ ý muốn làm linh mục. Từ trước Bosco vẫn có ý định muốn vào tu dòng thánh Phanxicô, nhưng đến sau, theo lời chỉ dẫn của cha linh hướng, Bosco đã bỏ ý định trên.
Thiên Chúa quan phòng muốn tuyển trạch chàng để sau này sáng lập dòng mới theo ý hướng của Chúa.
Ngày 30-10-1835 Gioan Bosco vào đại chủng viện Turinô. Thầy Bosco học hành rất chăm chỉ và rất giỏi. Thời gian thấm thoát trôi qua, ngày mong ước đã tới: ngày 5-6-1841, Gioan Bosco được chịu chức linh mục. Trong ngày Gioan Bosco thụ phong linh mục, mẹ ngài đã nói một câu mà ngài ghi nhớ và suy niệm suốt đời: "Con ơi, ngày nào con bắt đầu uống Máu Thánh, là ngày con bắt đầu đau khổ". Làm linh mục rồi, ngoài việc coi xứ, ngày ngày linh mục Bosco đi thăm viếng các người nghèo khó và các bệnh nhân trong bệnh viện và cả các tù nhân trong các đề cao ở Turinô.
Từ ngày 08-12-1841, linh mục Bosco dồn hết tâm lực vào việc lựa nhân viên để thiết lập dòng Salêdiêng tương lai. Ngài nhận một em bé vô thừa nhận bị người coi nhà thờ đánh đập thậm tệ và xua đuổi đi rất tàn nhẫn: cậu bé đó tên là Carelli. Vì chưa xây được nhà, thánh nhân đành cho cậu trú ngụ trong nhà mặc áo nhà thờ thánh Phanxicô. Ngài cho cậu học chữ và giáo lý để chuẩn bị rước lễ lần đầu. Dần dà không những ngoài Carelli trong nhà ngài còn rất nhiều trẻ em khác.
Ngày 2-2-1842, trong nhà mặc áo thánh đường Phanxicô, người ta thấy có đến hai mươi em bé mồ côi. Rồi dần dà con số đó tăng lên tới 100 em. Năm 1844, cha Gioan Bosco được cử làm Giám đốc viện dưỡng lão Phônêma, đồng thời ngài kiêm thêm việc quản trị một cô nhi viện do bà hầu tước Barôlô sáng lập.
Không bao lâu, cô nhi viện không còn chỗ dung nạp thêm. Số các em đã tăng lên với con số 300.
Được sự chấp thuận của Đức cha Franxoni, Tổng Giám mục thành Turinô, cha Bosco sử dụng ngôi nhà thờ thánh Martinô cũ kỹ với năm chữ vàng khắc trên cửa nhà thờ: "Tu viện thánh Phanxicô Salê" Nhưng vì các em nô đùa nghịch ngợm làm huyên náo cả một khu phố, thánh nhân buộc lòng phải di cư cô nhi viện đến nhà thờ thánh Phêro do bà bá tước Cavua (Cavour) nhường lại, nhưng rồi sau cùng lại phải di cư đi chỗ khác. Lần này không kiếm đâu ra nhà nữa, thánh nhân đành phải dẫn dắt đoàn con côi cút đến sống ngay giữa cánh đồng cỏ. Gặp thời mưa sa, gió rét, lại phải chạy vào trú ẩn ở những lẫm lúa miền Vanđôccô, ngài dốc toàn lực lượng để xây cất một ngôi nhà cho con cái ngài có chỗ nương thân. Lo cho có chỗ ở, ngài còn phải tần tảo để kiếm cơm ăn, áo mặc và có chỗ học tập cho bầy con côi cút.
Vì quá lao lực, tháng 7 năm 1846, thánh nhân bị bệnh sưng màng phổi. Các bác sĩ đều thất vọng. Nhưng có lẽ Chúa chưa muốn để bầy trẻ phải vất vưởng không người săn sóc. Mùa đông năm đó thánh nhân được bình phục, lại trở về Turinô tiếp tục công việc ngài đã vất vả xây dựng. Vì hiếm người, thánh nhân mời mẹ tới lo việc bếp nước và may vá cho đoàn trẻ. Thánh nhân thuê được hai gian nhà ở gần lẫm Vanđôccôâ: gian trước dùng làm nhà bếp và nhà ở cho mẹ ngài; gian sau dùng làm bàn giấy và phòng ngủ của ngài. Lẫm Vanđôccôâ được dùng làm nhà nguyện. Thánh nhân cũng cấp tốc mở các lớp học tối.
Ngài nhận thấy muốn cho công việc giáo dục có kết quả, cần áp dụng chính sách "có mặt", nghĩa là ngài phải để mắt coi sóc các con cái ngài suốt ngày đêm. Thánh nhân dự định mở một ký túc xá. Để đạt ý định đó, lần hồi ngài đã thuê được cả toà nhà thuộc khu trại Vanđôccôâ. Tuy nhiên, ngài vẫn cảm thấy chật chội. Chủ trại bán cho ngài cả toà nhà ông đang ở với giá 30.000 quan. Nhờ lòng hào hiệp của các vị ân nhân, ngày 19-2-1851, ngài đã kiếm được đủ số tiền để trả. Sau đó ngài lại kiếm thêm được tiền để xây cất một ngôi nhà thờ đồ sộ. Ít lâu sau lại sừng sững mọc lên một toà nhà lộng lẫy, đội tên là nhà thờ của thánh Phanxicô Salê.
Bí quyết của thánh Bosco trong công cuộc giáo dục trẻ em đơn sơ nhưng rất kỳ diệu. Với một tình yêu người mẹ hiền và với lòng nhân hậu của người cha, thánh nhân đã gây trong lòng những người con yêu dấu của ngài một lòng tín nhiệm sâu xa và một lòng kính yêu chân thành, và chỉ có thế đã đủ để công cuộc giáo dục của thánh nhân được kết quả mỹ mãn.
Thánh nhân không chỉ nguyên lo việc phát triển thể xác của con cái ngài, nhưng ngài còn lo lắng mở mang trí tuệ và nhất là lo huấn luyện tâm hồn các em. Thánh nhân khích lệ con cái ngài năng xưng tội, rước lễ và nhất là lo tập cho các em thói quen xem lễ hằng ngày.
Trẻ em được thánh nhân huấn luyện đều rất ngoan ngoãn và chăm chỉ. Mọi hành động của các em đều quy về mục đích là mến Chúa và làm đẹp lòng Người.
Mẹ thánh nhân từ trần vào mùa đông năm 1856. Chính thánh nhân đã làm các phép bí tích sau cùng cho mẹ. Cùng với cái tang đau đớn đó, thánh nhân còn phải đương đầu với những trở ngại, những khó dễ do chính phủ Ý gây nên.
Đứng trước tình thế nguy ngập trên, thánh Bosco phải đi tìm thêm một số linh mục khác cộng tác với ngài để thực hiện xong những ý định của ngài. Một số linh mục ở Turinô nhận hợp tác với ngài.
Qua năm 1857, thánh nhân chiêu mộ được một con số chừng 15 linh mục và một số giáo lý viên để thành lập một dòng tu với mục đích lo giáo dục các trẻ mồ côi nghèo khổ. Dòng mới này được mệnh danh là dòng Salêdiêng. (Đức Thánh Cha Piô IX châu phê luật dòng của thánh nhân năm 1874).
Qua năm 1872, hai hội dòng khác được thánh nhân sáng lập để củng cố và phát triển công cuộc của ngài: hội Đức Mẹ phù hộ giáo hữu. Hội này được thành lập với mục đích phát triển và nâng đỡ ơn thánh triệu linh mục.
Nhờ hội trên, thánh Bosco đã cống hiến cho Giáo hội hơn mười ngàn linh mục; thánh nhân lập thêm một dòng nữ mệnh danh là dòng Các Bà Phước Đức Mẹ Phù hộ, tức dòng nữ Salêdiêng. Dòng nữ này được thành lập với mục đích cứu trợ và giáo dục các em cô nhi.
Công cuộc vĩ đại của thánh Bosco đã mang đến cho thời đại ngài nhiều lợi ích và tiến bộ đáng kể. Thánh nhân đã giải quyết được nhiều vấn đề lớn lao và nan giải của thời đại ngài trong lúc hàng vạn con trẻ Ý lang thang vất vưởng trên các nẻo phố; thánh nhân đã huấn luyện cho nhiều thanh thiếu niên có nghề nghiệp sinh sống. Ngài hành động để xoa dịu một phần nào những đau thương của xã hội. Nhưng công việc đáng kể là thánh nhân đã tuyển mộ cho Giáo hội được một số linh mục đạo đức. Ngay từ thời thánh nhân còn sống, dòng của ngài đã mọc lên như nấm khắp nước Ý.
Năm 1863, thánh Gioan Bosco mở một trường trung học vĩ đại ở Marabel và một trường khác ở Lanso. Người ta đã tặng cho ngài danh hiệu "thánh Vinhsơn Phaolô" của nước Ý.
Thánh nhân làm nhiều phép lạ trong khi ngài thực hiện công việc bác ái. Người ta thuật lại rằng một lần kia Đức Thánh Cha Piô IX đã nói với một bệnh nhân đến xin Đức Thánh Cha chữa bệnh cho ông như sau: "Nếu con muốn khỏi bệnh, con hãy đến với cha Gioan Bosco, cha sở Turinô, ngài sẽ chữa con khỏi bệnh".
Thực ra, thánh Bosco là một vị thánh đã thực hiện đức bác ái một cách hoàn hảo. Hơn ai hết, thánh nhân đáng tự hào về những lời đáng kính của Thầy Chí Thánh: "Trước hết các con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người ".
Công cuộc vĩ đại của thánh nhân, ngay từ khi còn sống đã lan rộng tới các hang cùng ngõ hẻm trong khắp nước Ý, sang Pháp và cả Châu Mỹ. Nhiều lần ngài đi công cán bên Pháp, đi đến đâu dân chúng cũng kéo đến vây quanh ngài với một lòng thành kính đặc biệt. Mọi người đều cảm phục trước vẻ oai nghiêm, vui vẻ đơn sơ và nhân hậu của thánh nhân. Là người nổi danh ở Turinô thánh nhân giảng thuyết với những lời lẽ đơn sơ dễ hiểu và êm dịu. Ngài giảng thuyết rất nhiều về trẻ em và hình như ngài chỉ nói vấn đề đó, một vấn đề ngài đã đem hết tâm lực để phụng sự.
Vì quá lao lực, năm 1884, cha ngã bệnh nạêng, lúc đó ngài đã ngoài 60 tuổi. Nhưng nhờ lời cầu nguyện của đại gia đình Salêdiêng, ngài lại được bình phục.
Mặc dầu tuổi đã cao, thánh nhân vẫn còn hoạt động cách sáng suốt và hiệu lực. Thể theo lời yêu cầu của Đức Thánh Cha Lêô XIII, thánh nhân khởi công xây cất một ngôi thánh đường đồ sộ trên đồi Esquilinộ Để thực hiện công cuộc vĩ đại đó, thánh Bosco rảo khắp nước Ý, Pháp và Tây Ban Nha để quyên tiền và vật liệu…
Nhưng vì tuổi cao sức yếu, và vì lao lực quá, ngài lại ngã bệnh. Ngày 08-12-1887, thánh nhân còn thảo một bức thư gửi đại gia đình Salêdiêng. Bao lâu còn gượng được thánh nhân vẫn cố gắng giải tội lâu giờ. Ngày 01- 01-1888 tình trạng sức khoẻ của thánh nhân có vẻ khả quan hơn. Đức Giám mục Lie (Liège) xin thánh nhân thiết lập tu viện Salêdiêng ở giáo phận ngài. Thánh nhân đồng ý và đây là ngôi nhà dòng Salêdiêng cuối cùng do thánh nhân thiết lập.
Ít lâu sau, bệnh cũ lại trở lại, và nguy kịch hơn, Đức Hồng Y Hisơn (Hicherd) đích thân đến thăm viếng thánh Bosco và thánh nhân đã khẩn khoản xin Đức Hồng Y ban phép lành. Sau khi đã ban phép lành cho thánh Bosco, Đức Hồng Y cũng quỳ gối xin thánh nhân ban phép lành cho mình.
Thứ ba ngày 30 tháng giêng, bệnh tình thánh nhân càng ngày càng trầm trọng. Vào khoảng hai giờ sáng, Đức Thánh Cha từ đền thánh Phêrô ban phép lành Toà Thánh cho thánh nhân, khoảng bốn giờ ba khắc, sau khi đã chịu các phép bí tích, thánh nhân thở hơi cuối cùng giữa đoàn con yêu quý đứng vây quanh giường ngài, mắt rướm lệ.
Cả thành phố Turinô đau đớn chịu tang vị đại ân nhân. Họ buồn vì mất một người cha, nhưng lại vui mừng vì được một vị thánh như lời Đức Thánh Cha Lêô đã nói khi hay tin thánh nhân từ trần: "Don Bosco là một vị Thánh!".
Tuy chết đi nhưng hình ảnh của người cha hiền đó sẽ còn sống mãi trong lòng nhân thế. Lòng nhiệt thành và từ tâm của ngài đối với bầy trẻ côi cút phải là bài học sáng ngời soi dẫn tâm hồn con người trong muôn thế hệ.
Những phát hiện về vai trò của xương dưới sụn gần đây đã mở ra hướng nghiên cứu mới trong việc phòng và điều trị các bệnh xương khớp. Theo đó, phát minh dưỡng chất sinh học Peptan 100% thiên nhiên của các nhà khoa học Mỹ có thể tác động đồng thời vào sụn và xương dưới sụn đem đến giải pháp toàn diện và trúng đích cho người thoái hóa khớp.
PGS-TS-BS Vũ Đình Hùng
Tổn thương sụn và xương dưới sụn đẩy nhanh thoái hóa khớp
Nghiên cứu cho thấy, sự tấn công liên tục của quá trình lão hóa tự nhiên và các tác động cơ học từ vận động hàng ngày khiến sụn và xương dưới sụn mất cân bằng giữa hủy hoại và tái tạo, quá trình huỷ hoại diễn ra nhanh chóng ở sụn và xương dưới sụn dẫn tới thoái hóa khớp.
Khi đó, sụn - lớp mô giữ chức năng bao bọc lấy đầu xương, không cho các đầu xương tiếp xúc trực tiếp với nhau để khớp vận động dễ dàng và không bị bào mòn, bong tróc. Xương dưới sụn - phần nằm ngay bên dưới sụn khớp, cùng với sụn khớp có tác dụng hỗ trợ chống sốc và giảm áp lực cho khớp, cung cấp dinh dưỡng nuôi sụn khớp, thúc đẩy sự chuyển hóa tại sụn. Khi thoái hóa khớp, lớp xương dưới sụn bị biến đổi cấu trúc và hình dạng, hình thành nhiều vùng xương đặc - rỗng xen kẽ, thậm chí tạo ra những gai xương.
Sụn hư hại không bảo vệ được các đầu xương. Xương dưới sụn bị chà sát, lồi lõm, mọc gai ảnh hưởng tới việc hỗ trợ chịu lực và cung cấp dinh dưỡng cho sụn. Sự tổn thương đồng thời cùng tác động tiêu cực lên nhau giữa sụn và xương dưới sụn đẩy tiến trình thoái hóa khớp diễn ra nhanh hơn và nặng nề hơn.
JEX Max (bước tiến vượt bậc từ JEX) chứa dưỡng chất sinh học PEPTAN tác động kép vào sụn và xương dưới sụn, giúp kiểm soát hiệu quả thoái hóa khớp
Cần bảo tồn song song hai yếu tố
Làm chậm tiến trình thoái hóa, bảo tồn hệ xương khớp là một trong những thách thức của y học hiện đại. Việc điều trị bằng thuốc giảm đau, kháng viêm có nhiều tác dụng không mong muốn, không khắc phục được từ gốc, chỉ dùng ở giai đoạn cấp tính và phải có sự giám sát chặt chẽ của bác sĩ.
Những năm gần đây, sử dụng hoạt chất sinh học thiên nhiên được xem là xu hướng an toàn và hữu hiệu, trong đó UC-II đã được ghi nhận đạt hiệu quả đáng kể trong vấn đề tái tạo và nuôi dưỡng mô sụn.
Đặc biệt, những phát hiện về vai trò của xương dưới sụn trong cơ chế bệnh sinh thoái hóa khớp gần đây đã mở ra hướng phòng và điều trị mới. Đó là, tác động đồng thời vào sụn và xương dưới sụn, phục hồi song song hai yếu tố này để chăm sóc khớp một cách trúng đích và toàn diện.
Dưỡng chất PEPTAN tác động kép vào sụn và xương dưới sụn
Kế thừa và phát triển ngành sinh học phân tử lên một tầm cao mới, gần đây các nhà khoa học Mỹ đã phát minh tinh chất Peptan có khả năng tác động vượt trội đến sụn và xương dưới sụn, trì hoãn tiến trình thoái hóa khớp, bảo vệ tối đa hệ vận động của con người.
Peptan là loại peptide cao cấp, nguồn gốc hoàn toàn từ thiên nhiên, chứa nhiều acid amin quý với độ tinh chiết và tỷ lệ tối ưu bằng công nghệ độc quyền của Mỹ. Vì mang hoạt tính sinh học cao, 90% thành phần Peptan được hấp thu chỉ 12 giờ sau khi uống, nhanh chóng có mặt trong mô liên kết tại sụn và xương dưới sụn để sửa chữa các hư tổn.
Kết quả nghiên cứu lâm sàng cho thấy, Peptan tác dụng mạnh mẽ trên sụn khớp, giúp tăng 3,2 lần lượng Collagen (chất căn bản của sụn khớp), tăng 3,6 lần lượng Aggrecan (thành phần tham gia cấu tạo khớp và dịch khớp) chỉ sau 8 ngày sử dụng. Đồng thời, Peptan thúc đẩy tế bào tạo xương tăng cường hoạt động, giảm thiểu tối đa tình trạng hủy xương nhằm cân bằng lại quá trình hủy hoại và tái tạo, cải thiện mật độ khoáng của xương, phục hồi và tăng sức bền cho xương dưới sụn.
Cơ chế tác động kép của Peptan đã được chứng minh giúp bảo vệ, chăm sóc sụn và xương dưới sụn từ gốc, từ đó giúp giảm đau an toàn, kiểm soát hiệu quả tiến trình thoái hóa cũng như tăng cường sức mạnh cho hệ xương khớp.
PGS-TS-BS Vũ Đình Hùng
Đau dạ dày mãi không hết, hãy dùng thử bài thuốc rẻ tiền này
Hoa chuối là nguyên liệu của rất nhiều món ăn ngon trong ẩm thực nước ta như gỏi, canh chua hoặc đi kèm với các món ăn dân dã khác…
Giờ đây,hoa chuốicòn là khắc tinh của căn bệnh đau dạ dày, đây chắc chắn là tin vui cho những ai đang ngày đêm bị căn bệnh này hành hạ. Theo y học cổ truyền, vị thuốc này vị ngọt, tính hàn, có công dụng thông kinh lạc, nhuyễn kiên, do đó, chúng góp mặt trong nhiều bài thuốc chữa đau dạ dày.
Đau dạ dày gây nhiều rắc rối cho bạn.
Nếu bạn đã dùng rất nhiều loại thuốc từ Tây y đến Đông y mà tình hình không thuyên giảm, hãy thử thêm 2 bài thuốc từ hoa chuối dưới đây nhé. Rất đơn giản, dễ thực hiện lại không quá tốn kém.
2 bài thuốc trị đau dạ dày từ hoa chuối
Bài thuốc 1
Ở bài thuốc này, ngoài hoa chuối, bạn cần chuẩn bị thêm 1 loại nguyên liệu đó chính là hoa trà, tuy nhiên, cần phải lưu ý, bài thuốc này chỉ phát huy hiệu quả khi bạn lựa đúng loại hoa trà sống trên cây tiêu (có thể tìm mua chúng tại các nhà thuốc bắc).
Mỗi vị thuốc có khối lượng khoảng 15gr, cho toàn bộ vào trong nồi, sắc với nước, sau đó, chắt lấy nước uống hằng ngày.
Kiên trì áp dụng trong 10 ngày, các triệu chứngđau dạ dàysẽ thuyên giản.
Hoa chuối trị đau dạ dày hiệu quả lại rẻ tiền.
Bài thuốc 2
Nếu bạn không tìm thấy hoa trà kí sinh trên cây tiêu, đừng quá lo lắng, vẫn còn thêm 1 cách đơn giản hơn nhiều giúp bạn điều trị căn bệnh đau dạ dày rất hiệu quả.
Tuy nhiên, so với cách trên, phương pháp này tốn nhiều thời gian của bạn hơn. Hoa chuối, thái nhỏ, cho vào nước rửa sạch và nấu chung với gạo tẻ thành cháo, có thể thêm vào tí muối cho dễ ăn.
Thực hiện liên tục trong vòng 10-15 ngày sẽ thấy ngay hiệu quả.
Hoa chuối nấu cháo trị đau dạ dày.
Mẹo nhỏ bạn cần phải nhớ
Để hai bài thuốc trên phát huy toàn bộ công dụng, bạn hãy ghi nhớ thêm các nguyên tắc dưới đây.
- Hạn chế thức khuya, suy nghĩ, làm việc căng thẳng… một khi bạn khắc phục được tình trạng này, niêm mạc dạ dày của bạn sẽ được bảo vệ trước những tổn thương.
- Không được bỏ qua bữa ăn sáng, kèm theo đó, hãy ăn đầy đủ, đúng bữa, đúng giờ, ăn chậm nhai kỹ…
- Hãy thêm rau xanh vào thực đơn dinh dưỡng hằng ngày, nói không với các thức ăn, nước uống chứa chất kích thích như rượu bia, cà phê… Tích cực tham gia các hoạt động thể dục thể thao như đi bộ, đạp xe…
- Nếu bạn không muốn bao tử của mình bị hành hạ ngày càng nghiêm trọng, tuyệt đối không tiêu thụ các loại thức ăn cay như ớt, tiêu, sa tế…
Chúc bạn sống vui khỏe với các gợi ý trên!
Khế
Khế là loại quả dân dã, được nhiều người trồng sẵn trong vườn nhà hoặc được bán ở chợ với giá rẻ bèo nhưng lại tốt không tưởng.
Quả khế vị chua và ngọt, có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, làm long đờm và tiết nước bọt. Rễ khế vị chua, có tác dụng trừ phong thấp, giảm đau. Thân và lá vị chua và se, có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu. Ngoài ra, trong múi khế còn chứa hàm lượng acid oxalic là 1% cùng các yếu tố vi lượng như Ca, Fe, Na và nhất là có nhiều vitamin K, A,C, B1, B2 và P.
Chữa cảm, viêm họng, kháng khuẩn
Từ lâu, quả khế đã được dùng rộng rãi trên thế giới để chữa cháy nắng, chữa ho, sốt, đau họng, bệnh eczema. Lá cây khế cũng được dùng để trị viêm loét dạ dày, viêm da có mủ, ung nhọt, cải thiện các vấn đề về tiêu hóa. Hoa khế dùng để trị ho cho trẻ em rất tốt.
Quả khế chứa một tác nhân kháng khuẩn có thể “chiến đấu” với các loại khuẩn như microbial bacillus cereus, e.coli, salmonella typhus…
Giảm cân
Mỗi quả khế trung bình chỉ chứa khoảng 30 calo nhưng lại chứa rất nhiều chất xơ, vitamin C, chất chống oxy hóa và flavonoids, do đó khế là loại quả lý tưởng cho những ai muốn giảm cân mà vẫn đảm bảo chất dinh dưỡng, lại có làn da đẹp mịn màng trẻ trung, tránh táo bón.
Tốt cho tim mạch
Khế còn chứa các vitamin A, B5 giúp quá trình trao đổi chất hoạt động trơn tru và suôn sẻ hơn. Ngoài ra, khế còn là nguồn vitamin B9 (axit folic) giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và đột quỵ, làm giảm lượng cholesterol.
Tốt cho bà bầu và bà đẻ
Các bà bầu nên ăn khế thường xuyên để giải nhiệt, trị táo bón, lại vừa có thể giúp bổ sung các vitamin tốt cho cơ thể. Quả khế còn được khuyên dùng cho các bà mẹ đang cho con bú vì khế giúp kích thích sữa về nhiều hơn.
Một số bài thuốc thường dùng
- Chữa cảm sốt, nhức đầu, đi tiểu ít: Lá khế tươi 100 g sao thơm, nấu với 750 ml nước, sắc còn 300 ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Hoặc dùng lá khế tươi 100 g, lá chanh tươi 20 - 40 g, hai thứ rửa thật sạch, giã nát, vắt lấy nước chia 2 lần uống trước bữa ăn.
- Chữa lở sơn, mày đay: Lá khế khoảng 20 g rửa sạch cho vào nồi nấu nước uống. Lấy 1 nắm lá khế, rửa sạch giã lấy nước cốt đặp lên vùng da bị tổn thương.
- Chữa cảm cúm: Đau người, hắt hơi sổ mũi, ho. Dùng 3 quả khế nướng vắt nước cốt hòa 50 ml rượu để uống. Uống sau bữa ăn 30 phút.
- Chữa đái dắt, đái buốt: Dùng lá khế 100g, rễ cỏ tranh 40 g. Cho 500 ml nước đun nhỏ lửa còn 150 ml nước, ngày một thang, chia 2 lần. Dùng liền 3 thang, sau đó tái khám. Mỗi liền trình có thể dùng 10 - 15 thang. Hoặc khế chua 7 quả, mỗi quả chỉ lấy 1/3 phía gần cuống. Nấu với 600 ml nước, sắc còn 300 ml, uống lúc còn ấm nóng.
- Chữa viêm họng: Lá khế 40 g rửa sạch, thêm vài hạt muối giã nhỏ vắt nước cốt ngậm, ngày nhiều lần.
- Chữa ho do lạnh có đờm: Hoa khế 20 g sao qua, sau đó tẩm nước gừng đem sao tiếp. Sắc lấy nước uống. Có thể thêm cam thảo nam 12 g, tía tô 8 - 10 g, kinh giới 8 - 10 g. Cho 750 ml nước, đun còn 300 ml, chia 3 lần uống trong ngày. Dùng liền 6 ngày.
- Phòng hậu sản cho phụ nữ sau sinh: Quả khế 20 g, vỏ cây hồng bì 30 g, rễ cây quả giun 20 g, sắc uống thay nước giúp phòng hậu sản.
- Chữa sốt cao lên cơn giật ở trẻ em: Hoa khế, hoa kim ngân, lá dành dành, cỏ nhọ nồi mỗi thứ 8g, cam thảo 4 g, bạc hà 4 g, sắc đặc chia nhiều lần uống trong ngày.